Mục đích của việc sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục đại học là gỡ bỏ các nút thắt nhằm phát triển giáo dục đại học, kiến tạo hành lang pháp lý vững chắc, thông thoáng, hấp dẫn để thực hiện tốt tự chủ, nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nâng cao chất lượng giáo dục đại học nhằm đạt mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Ảnh minh hoạ |
Nâng vị thế của giáo dục đại học
Rất nhiều ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục nhận định rằng: Sau 5 năm thực hiện, Luật Giáo dục đại học 2012 đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong hệ thống giáo dục quốc dân nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Luật đã quy định mục tiêu, nội dung khá toàn diện về giáo dục đại học, tạo môi trường pháp lý cho người học, cơ sở giáo dục trong đào tạo nhân lực trình độ cao, khẳng định vị thế của giáo dục đại học trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Luật Giáo dục đại học đã đặt nền móng pháp lý cho tự chủ đại học, theo đó, cơ sở giáo dục đại học đã được giao tự chủ trong một số quyền cơ bản.
Luật Giáo dục đại học 2012 cũng là văn bản đầu tiên quy định tương đối rõ nét về công tác bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại học, tạo cơ sở pháp lý để từng bước hình thành văn hoá chất lượng trong các trường để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các quy định về quản lý nhà nước đã được đổi mới, phù hợp với tư duy mới về tự chủ đại học.
Nhờ đó, trong 5 năm qua, hệ thống các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam đã phát triển cả về quy mô, số lượng và chất lượng. Tính đến hết năm học 2016-2017, Việt Nam có 235 trường đại học, học viện (bao gồm 170 trường công lập, 60 trường tư thục và dân lập, 5 trường có 100% vốn nước ngoài); 37 viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ; 33 trường cao đẳng sư phạm và 2 trường trung cấp sư phạm. Đối với nhóm trường sư phạm và đào tạo giáo viên, hiện nay có 58 trường đại học, 57 trường cao đẳng, 40 trường trung cấp có ngành đào tạo giáo viên (trong đó có 14 trường đại học sư phạm, 33 trường cao đẳng sư phạm và 02 trường trung cấp sư phạm).
Giáo dục đại học ngoài công lập bước đầu phát triển, nâng tỉ lệ lên 25% tổng số trường trong hệ thống, trong đó một số trường đã khẳng định được vị trí trong nước và quốc tế. Người học được mở rộng cơ hội tiếp cận với nền giáo dục bậc cao, phục vụ nhân lực cho thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn này, môt số trường đại học của Việt Nam đã có tên trong các bảng xếp hạng uy tín của Châu Á, trong đó, 5 trường lọt vào nhóm 350 trường đại học hàng đầu, tức là nằm trong nhóm 3% số trường đại học xuất sắc nhất của châu lục (theo bảng xếp hạng của Tổ chức QS, 2017). Cả nước có 100 chương trình đào tạo đạt chuẩn kiểm định giáo dục quốc tế, 4 trường đại học đạt chuẩn kiểm định chất lượng châu Âu...
Sửa đổi Luật để gỡ nhiều nút thắt
Dù đạt được nhiều thành kết quả quan trọng nhưng trong quá trình thực hiện, Luật Giáo dục đại học 2012 đã dần bộc lộ một số hạn chế, bất cập trước yêu cầu mới của thực tiễn quản lý, tổ chức và hoạt động trong điều kiện phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong điều kiện thực hiện các chủ trương đổi mới của Đảng, một số hạn chế cơ bản của Luật Giáo dục đại học 2012 đã trở thành những “điểm nghẽn”, “nút thắt” trong quá trình thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học.
Bộ GD&ĐT nêu rõ: Mục đích của việc sửa đổi, bổ sung Luật giáo dục đại học là gỡ bỏ các nút thắt nhằm phát triển giáo dục đại học, kiến tạo hành lang pháp lý vững chắc, thông thoáng, hấp dẫn để thực hiện tốt tự chủ đại học, nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; khuyến khích thu hút các nguồn lực trong nước, quốc tế tham gia phát triển giáo dục đại học.
Cụ thể, Luật Giáo dục đại học, Nghị định 16/NĐ-CP, Nghị quyết 77/NQ-CP đã có tác động đến sự phát triển của giáo dục đại học, nhất là các quy định về tự chủ, tạo hành lang lang pháp lý cho các cơ sở giáo dục đại học hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên, chưa có nhiều cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện tự chủ theo Nghị quyết 77/NQ-CP.
Đối với những cơ sở cơ sở giáo dục đại học đã tự chủ theo chủ trương thí điểm, việc tự chủ cũng chưa thực sự đem lại hiệu quả. Trong đó, tự chủ chưa gắn với trách nhiệm giải trình, đổi mới quản trị đại học, tự chủ chưa được thực hiện đồng bộ trên phương diện như đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản. Cơ sở giáo dục đại học còn bị quản lý có tính hành chính khá chặt chẽ, làm giảm tính chủ động, sáng tạo, kịp thời trong quản trị và tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục đào tạo của cơ sở giáo dục đại học. Vì thế, tự chủ đại học chưa thực sự hiệu quả. Các quy định của Luật cũng chưa rõ về trách nhiệm và cơ chế giải trình của các cơ sở giáo dục đại học
Hội đồng quản trị trong trường đại học ngoài công lập chưa được quy định rõ ràng nên thực tế hoạt động còn hình thức. Hội đồng trường chưa có thực quyền trong quyết định nhân sự hiệu trưởng và các vấn đề quan trọng của trường… Các quy định về tài chính, tài sản không phù hợp với chủ trương thực hiện tự chủ đại học. Mức học phí chưa được tính theo cơ chế định giá dịch vụ, chưa phù hợp với chi phí đào tạo thực tế của các nhóm ngành, các bậc đào tạo và chất lượng của từng cơ sở đào tạo.
Luật Giáo dục đại học 2012 cũng chưa quy định quyền liên doanh, liên kết, hình thành doanh nghiệp để ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học của cơ sở giáo dục đại học.
Cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ sở giáo dục đại học còn mang tính bình quân giữa các trường đại học công lập, chưa gắn với tiêu chí phản ánh chất lượng và kết quả đầu ra nên chưa phát huy được tính cạnh tranh giữa các trường đại học.
Các cơ sở giáo dục đại học còn hạn chế về tự chủ chuyên môn nên chưa phát huy được năng lực chủ động, sáng tạo của cơ sở đào tạo, đội ngũ các nhà khoa học trong đào tạo, khoa học công nghệ để đáp ứng yêu cầu nhân lực chất lượng cao, tạo ra “đột phá chiến lược” để phát triển nền kinh tế đất nước.
Thêm vào đó, các quy định liên quan đến chương trình, tổ chức đào tạo, hình thức, phương thức, thời gian đào tạo, đơn vị đo kiến thức… chưa tương thích với nhau nên hạn chế trong liên thông và hội nhập quốc tế, hạn chế tính dịch chuyển của sinh viên và khả năng trao đổi về đào tạo liên quốc gia. Các cơ sở đào tạo chưa được tự chủ cao trong mở ngành đào tạo, liên kết, hợp tác quốc tế để phát triển các chương trình liên kết, cải tiến các chương trình đào tạo tiệm cận chuẩn mực quốc tế, nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân lực của thị trường lao động trong và ngoài nước.
Về quản lý nhà nước còn nhiều điểm chưa phù hợp với điều kiện tự chủ đại học. Trong đó, cơ cấu tổ chức, mô hình của các trường đại học quy định tại Luật chưa thật phù hợp với thông lệ quốc tế, làm ảnh hưởng quá trình hội nhập quốc tế đối với giáo dục đại học.
Việc quy định trong các đại học có các trường đại học thành viên có quyền tự chủ như các trường đại học khác làm cho bộ máy quản lý, quản trị chồng chéo, giảm hiệu lực, hiệu quả trong chỉ đạo điều hành, giảm mối liên kết và cộng hưởng sức mạnh giữa các trường trong đại học. Quy định về phân tầng/phân loại, xếp hạng chưa phù hợp với các thông lệ chung trên thế giới và điều kiện của Việt Nam, chưa rõ về vai trò của các chủ thể tham gia nên chưa thể triển khai thực hiện.
Để tháo gỡ những điểm nghẽn, nút thắt, tạo điều kiện cho giáo dục đại học phát triển thực sự, Dự thảo Luật được đề xuất sửa đổi 39/73 điều, chiếm 53% tổng số điều của Luật giáo dục đại học và bổ sung 2 điều, tập trung vào những những vấn đề vướng mắc nhất trong hoạt động giáo dục đại học hiện nay.
Theo Bộ GD&ĐT, việc sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục đại học phải đảm bảo rà soát toàn diện và chọn ra các điểm cần thiết để sửa đổi, đảm bảo tính thực tiễn, khả thi và hiệu quả, đảm bảo tính hệ thống và đồng bộ; tính hiện đại và hội nhập quốc tế... Việc sửa đổi cũng tham khảo, chọn lọc kinh nghiệm phát triển giáo dục đại học của các nước tiên tiến trên thế giới để phát triển giáo dục đại học Việt Nam hướng tới chuẩn mực quốc tế.
.