Trong khi hội nhập kinh tế vẫn nhiều thách thức, để tận dụng thời cơ cho phát triển, cần tập trung hoàn thành tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đồng thời phát triển đồng bộ các thị trường, ý kiến của TS. Vũ Như Thăng (Vụ trưởng Vụ Quan hệ quốc tế, Bộ Tài chính).
TS. Vũ Như Thăng |
Hội nhập kinh tế vẫn chịu nhiều thách thức
Theo Dự thảo Báo cáo chính trị ĐH XII của Đảng, trong những năm tới, quá trình hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh và là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Xin ông cho biết tình hình ấy đòi hỏi Đảng, Nhà nước, cộng đồng DN phải nỗ lực như thế nào để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức?
TS. Vũ Như Thăng: Thực hiện chủ trương của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, tiến trình hội nhập của Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả đáng kể.
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng đi vào bản chất với những cam kết mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ trong khuôn khổ 10 Hiệp định Thương mại tự do (FTA) sau khi gia nhập WTO, đồng thời đã có những tác động tích cực và dài hạn đối với nền kinh tế Việt Nam, thông qua việc tạo cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, góp phần tăng tổng cầu đối với hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam, thu hút vốn đầu tư.
Sau gần 10 năm trở thành thành viên WTO (từ 2007), các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế đã được chuyển hóa thành những lợi ích cụ thể về tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu, trong đó tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình giai đoạn 2007-2015 khoảng 18%/năm, kim ngạch xuất khẩu năm 2014 gấp hơn 3 lần năm 2007; từng bước giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp cùng với lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu; môi trường đầu tư và kinh doanh ngày càng được cải thiện; thu hút đầu tư nước ngoài được đẩy mạnh với tổng vốn thực hiện là 85,35 tỷ USD trong giai đoạn 2007-2014, trung bình gần 11 tỷ USD/năm, đóng góp đáng kể vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm.
Bên cạnh đó, với việc Việt Nam gia nhập thị trường thế giới, theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế thì Việt Nam lại có điều kiện và động lực để cải cách pháp luật trong nước, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế để phù hợp với quá trình hội nhập.
Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam vẫn đang chịu nhiều thách thức, đặc biệt là nguy cơ tụt hậu với các nước trong khu vực ASEAN. Cụ thể, khoảng cách thu nhập bình quân đầu người chậm được thu hẹp với Malaysia, Thái Lan, Philippines, Indonesia; cơ cấu kinh tế chậm dịch chuyển sang hướng công nghiệp và dịch vụ; cơ sở hạ tầng còn lạc hậu; các yếu tố thị trường và các loại thị trường chưa phát triển đồng bộ; năng lực cạnh tranh quốc gia, cạnh tranh doanh nghiệp và cạnh tranh sản phẩm vẫn còn thấp.
Để tiếp tục tận dụng tốt các cơ hội phát triển do hội nhập kinh tế quốc tế đem lại, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực, cần tập trung hoàn thành tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đồng thời phát triển đồng bộ các thị trường trong thời gian tới. Trong đó, chú trọng đến đột phá về khoa học và công nghệ (KH&CN) và phát triển thị trường KH&CN, tăng cường sự gắn kết chặt chẽ giữa KH&CN với sản xuất, thúc đẩy phát huy sáng tạo cải tiến kỹ thuật, tăng cường hội nhập quốc tế về KH&CN… để nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đây là điều kiện tiên quyết cho việc đạt được mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hai là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật kinh tế để thực hiện đầy đủ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường tính công khai, minh bạch và hiệu lực của hệ thống chính sách, pháp luật nhằm tạo môi trường kinh doanh lành mạnh và cạnh tranh bình đẳng. Ba là tăng năng lực cạnh tranh ở cả ba cấp độ quốc gia, doanh nghiệp, sản phẩm; chú trọng hoàn thiện cơ sở hạ tầng đồng bộ, phát triển nguồn lao động chất lượng cao, đẩy mạnh tiếp nhận chuyển giao công nghệ.
Thu hút FDI cần cân bằng giữa chất và lượng
Việt Nam đã mở cửa thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ nhiều năm qua. Vốn FDI ngày càng đóng vai trò to lớn, trở thành động lực góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng của kinh tế đất nước. Việc củng cố, tăng cường và nâng cao hiệu quả của dòng vốn FDI vào Việt Nam là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, chúng ta cần có những cách thu hút và sử dụng vốn FDI như thế nào để có thể chuyển giao công nghệ và tạo ra hiệu ứng lan tỏa cho các DN Việt Nam vốn đang rất cần kỹ năng quản trị và công nghệ hiện đại, thưa ông?
TS. Vũ Như Thăng: Xét về tổng thể, dòng vốn FDI vào Việt Nam có những tác động tích cực đến tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động, gia tăng tổng vốn đầu tư toàn xã hội, mở rộng xuất khẩu và thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, dòng vốn FDI cũng giúp đẩy nhanh quá trình hình thành các sản phẩm mới, ngành mới, các khu công nghiệp và khu chế xuất.
Tuy nhiên, hiệu quả tổng thể trong sử dụng nguồn vốn FDI còn chưa cao. Trong thời gian qua, vốn FDI đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, trong đó phần lớn vào các ngành công nghiệp lắp ráp, tỷ lệ nội địa hóa thấp, đóng góp ít vào giá trị gia tăng sản phẩm.
Trong ngành dịch vụ, tỷ lệ đầu tư vào bất động sản còn cao, đầu tư vào các ngành dịch vụ phục vụ sản xuất, dịch vụ KH&CN, giáo dục, y tế, môi trường còn hạn chế. Bên cạnh đó, FDI vẫn chủ yếu tập trung vào một số địa phương có điều kiện thuận lợi về hạ tầng cơ sở, nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ sản phẩm. FDI đầu tư vào các khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh miền Trung còn thấp.
Đối tác đầu tư vẫn chủ yếu đến từ khu vực châu Á trong khi từ khu vực châu Âu, Hoa Kỳ còn thấp, chưa thu hút được nhiều tập đoàn xuyên quốc gia.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng hiệu ứng lan tỏa của khu vực FDI sang khu vực khác của nền kinh tế còn hạn chế, và những năm gần đây còn có chiều hướng đi xuống, thậm chí có tác động chèn lấn các DN trong nước ở một số lĩnh vực.
Mục tiêu thu hút và chuyển giao công nghệ cao và công nghệ nguồn còn chưa đạt được như kỳ vọng, công nghệ của các dự án FDI vào Việt Nam chưa phải là những công nghệ hàng đầu, công nghệ nguồn. Trong những năm gần đây, đã có một số dự án sản xuất sản phẩm công nghệ cao, linh kiện điện tử, tuy nhiên chủ yếu là trong công đoạn gia công lắp ráp hoặc sản xuất những cấu kiện đơn giản.
Nhằm tiếp tục phát huy thế mạnh và giảm bớt hạn chế của FDI, trong thời gian tới, chúng ta cần căn cứ vào các cam kết trong hội nhập, rà soát lại các chiến lược và quy hoạch phát triển ngành và vùng, đặc biệt là chiến lược phát triển công nghiệp, nông nghiệp và các ngành dịch vụ. Trên cơ sở đó, ưu đãi đầu tư có điều kiện, có định hướng vào một số ngành mũi nhọn, tận dụng kinh nghiệm, công nghệ, kỹ năng và thị trường của khối doanh nghiệp FDI để tăng tỷ lệ giá trị gia tăng sản xuất trong nước, chuyển giao và tiếp thu công nghệ, thu hút phát triển một số ngành dịch vụ phục vụ sản xuất, cho phép tham gia nhiều hơn vào thị trường vốn, thị trường tài chính. Nghĩa là, thu hút FDI cần cân bằng giữa chất lượng và số lượng, hướng đến chuyển dần sang thu hút theo chất lượng khi nền kinh tế trong nước đã dần đáp ứng được nhu cầu về vốn cho phát triển. Đồng thời, khuyến khích tăng cường liên kết với sản xuất của khu vực doanh nghiệp trong nước, gắn với tham gia chuỗi giá trị sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước.
Ba trọng tâm phát triển nền kinh tế
Dự thảo Báo cáo chính trị tại ĐH XII của Đảng xác định một trong những nhiệm vụ tổng quát của 5 năm tới là tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Qua gần 30 năm đổi mới, bối cảnh trong nước và quốc tế đã có nhiều thay đổi, để xác định con đường phát triển tiếp theo của đất nước, chúng ta cần phải làm rõ hơn những căn cứ lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế thị trường phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam và về những yếu tố cốt lõi bảo đảm định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường như thế nào?
TS. Vũ Như Thăng: Đây là 1 trong 12 nhiệm vụ tổng quát trong 5 năm tới nhằm góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, trong đó hướng đến xây dựng nền tảng để đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu này, trong điều kiện thực tiễn Việt Nam cần giải quyết tốt 3 vấn đề trọng tâm.
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình DN. Trong đó, đẩy mạnh cơ cấu lại DN Nhà nước cùng với quá trình cổ phần hóa theo hướng thúc đẩy quản trị công ty, minh bạch và công khai thông tin tài chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của DN Nhà nước và hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào DN, tăng cường cơ chế giám sát tài chính DN. Giải phóng nguồn lực, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển gắn với đổi mới cơ chế tài chính DN đáp ứng yêu cầu hội nhập và nâng cao năng lực cạnh tranh của DN.
Thứ hai, phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, trong đó thực hiện cơ chế giá thị trường đối với giá vốn (lãi suất, tỷ giá), giá bất động sản, giá cả hàng hóa sức lao động (tiền lương, tiền công) và giá dịch vụ. Coi cải cách giá dịch vụ công là một trong những đột phá chiến lược để hình thành thị trường dịch vụ công, thị trường KH&CN, đồng thời giải phóng sức sản xuất trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, KH&CN để tiền lương của đội ngũ giáo viên, bác sỹ, nhà khoa học tiệm cận với giá cả sức lao động trên thị trường.
Thứ ba, cần tăng cường xây dựng niềm tin pháp chế XHCN trên cơ sở thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật, tôn trọng kỷ luật, kỷ cương để người dân thực sự tin tưởng, sống và làm việc theo pháp luật và được pháp luật bảo vệ.
Xin cảm ơn ông!