Warning: include(/export/home2/WebData/baocongannghean//van-hoa-giao-duc/201207/21923-mat-mot-thanh-nien-toi-nhu-dut-mot-doan-ruot-396019/index.txt): failed to open stream: No such file or directory in /export/home2/WebData/baocongannghean/index.php on line 72

Warning: include(): Failed opening '/export/home2/WebData/baocongannghean//van-hoa-giao-duc/201207/21923-mat-mot-thanh-nien-toi-nhu-dut-mot-doan-ruot-396019/index.txt' for inclusion (include_path='.:/usr/local/php/lib/php') in /export/home2/WebData/baocongannghean/index.php on line 72
"Mất một thanh niên, tôi như đứt một đoạn ruột" - Báo Công An Nghệ An điện tử
Thứ Sáu, 27/07/2012, 08:00 [GMT+7]
21923

"Mất một thanh niên, tôi như đứt một đoạn ruột"

Sau thành công của Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa ra đời, thực dân Pháp lại tìm cách muốn chiếm nước ta một lần nữa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc lại nhất tề đứng lên tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ thành quả cách mạng.
 
Một số chiến sỹ đã để lại chiến trường một phần cơ thể, một số đã anh dũng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Trước tình hình đó, tháng 6 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị chọn một ngày trong năm làm ngày Thương binh để nhân dân ta có dịp tỏ lòng biết ơn, yêu mến thương binh.
 
Thực hiện Chỉ thị của Người, một hội nghị trù bị gồm đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội phụ nữ cứu quốc, Trung ương Đoàn thanh niên cứu quốc, Cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam, Nha Thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái) để bàn về công tác thương binh liệt sỹ. Sau khi cân nhắc nhiều mặt hội nghị đề nghị Trung ương lấy ngày 27/7/1947 làm ngày Thương binh liệt sỹ. Từ đó, ngày 27/7 hàng năm đã trở thành ngày Thương binh liệt sỹ.
 
Những ngọn nến tri ân tại nghĩa trang liệt sỹ. Ảnh Huỳnh Hà
 
Chưa đầy một tháng sau, ngày 17/7/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có thư gửi Ban Thường trực của ban tổ chức “Ngày thương binh toàn quốc”. Bức thư có đoạn viết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe doạ, của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong đi trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh.
 
Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt.
 
Vì vậy, Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”. Người còn nói: “Ngày 27/7 là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, là tỏ lòng yêu mến thương binh”.
 
Cuối bức thư Người viết “Luôn luôn tin tưởng vào lòng nhường cơm sẻ áo của đồng bào ta, tôi chắc rằng “Ngày thương binh” sẽ có kết quả mỹ mãn. Tôi xin xung phong gửi một chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu tôi, 1 tháng lương của tôi, 1 bữa ăn của tôi và của các nhân viên tại phủ Chủ tịch, cộng lại là một nghìn, một trăm hai mươi bảy đồng (1.127đ)”.
 
Một năm sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi nhân ngày 27/7/1948: “Khi nạn ngoại xâm ồ ạt đến, nó đến như một trận lụt to. Nó đe doạ tràn ngập cả non sông Tổ quốc. Nó đe doạ cuốn trôi cả tính mệnh tài sản, chìm đắm cả bố, mẹ, vợ, con, dân ta”.
 
Trước cơn nguy hiểm ấy, số đông thanh niên yêu quý của nước ta dũng cảm xông ra mặt trận. Họ quyết đem xương máu của họ đắp thành một bức tường đồng, một con đê vững, để ngăn cản nạn ngoại xâm tràn ngập Tổ quốc, làm hại đồng bào. Họ quyết hy sinh tính mạng họ, để giữ gìn tính mạng của đồng bào”.
 
Người đã gửi tới đồng bào, anh em thương binh và gia đình tử sỹ những tình cảm thống thiết: “Cách mấy ngày trước, bố mẹ họ nhận được tin tức, đang mong cho đến ngày kháng chiến thắng lợi, độc lập thành công, họ sẽ trở lại quê hương, một nhà đoàn tụ. Ngày nay, bố mẹ họ đã mất một người con yêu quý. Vợ trẻ trở nên bà goá. Con dại trở nên mồ côi. Trên bàn thờ gia đình thêm một linh hài tử sỹ”.
 
Người kêu gọi: “Tôi mong đồng bào sẵn lòng giúp đỡ họ về vật chất và về tinh thần. Từ trước đồng bào đã giúp đỡ nhiều. Những tay chân tàn phế của thương binh sẽ không mọc lại được. Và những tử sỹ sẽ không thể tái sinh. Mà lòng bác ái của đồng bào cũng không có hạn”.
 
Tháng 9/1948, khi được tin cụ Tạ Quang Yên ở Nam Định có 8 người con, trong đó 6 người tham gia kháng chiến, 4 người đã oanh liệt hy sinh vì Tổ quốc, Bác đã gửi lời khen ngợi: "Một nhà trung hiếu, muôn thuở thơm danh". Với Bác “Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột” (Thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng tháng 1/1947).
 
Tháng 7/1953, trong thư gửi cụ Bộ trưởng thương binh, cựu binh, Bác viết: “Nhân dịp ngày Thương binh, tôi xin gửi một tháng lương của tôi và 50 cái khăn tay do đồng bào phụ nữ Thái biếu tôi, nhờ cụ chuyển cho anh em thương binh với lời chào thân ái của tôi”. Tháng 7/1954, cũng qua cụ Bộ trưởng Bộ Thương binh, cựu binh kèm theo thư 30 ngàn đồng do một kiều bào ở Trung Quốc tặng Bác và một tháng lương của Bác là 45 ngàn đồng để tặng anh em thương binh, bệnh binh.
 
Thực hiện tư tưởng của Bác và noi gương Bác suốt mấy chục năm qua, các cấp uỷ Đảng, chính quyền của tỉnh và nhiều địa phương trong tỉnh đã có nhiều việc làm thiết thực để đền ơn đáp nghĩa các gia đình liệt sỹ, gia đình có công với nước, anh em thương bệnh binh.
 
Nhiều ngôi nhà tình nghĩa do nhân dân và các cơ quan đóng góp xây dựng trao tặng các gia đình liệt sỹ và thương binh, bà mẹ Việt Nam anh hùng gặp nhiều khó khăn. Hàng trăm thương binh được bố trí công ăn việc làm phù hợp và giải quyết các chế độ chính sách thoả đáng. Nghĩa trang liệt sỹ của các huyện, thành phố, thị xã đã được chăm sóc tu bổ, sạch sẽ. Cán bộ và nhân dân các địa phương thường xuyên chăm lo hương khói.
 
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta mãi mãi biết ơn các anh hùng, liệt sỹ, thương bệnh binh, gia đình có công với cách mạng đã hy sinh vì Tổ quốc. Uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa mãi mãi là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta mà Bác Hồ đã dày công vun đắp.

Nguyễn Minh Châu
.