(Congannghean.vn)-Hiện nay, tình trạng xâm hại tình dục trẻ em có xu hướng gia tăng, gây nhức nhối trong dư luận. Trong đó, đáng báo động là thủ phạm các vụ xâm hại thường có quan hệ quen biết với gia đình nạn nhân. Vấn nạn này dấy lên hồi chuông báo động về sự suy đồi nhân cách, đạo đức của một số phần tử biến chất, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển lành mạnh về thể chất cũng như vấn đề tâm, sinh lý của trẻ.
Cảnh giác với “yêu râu xanh” đội lốt người thân
Trong các loại hình xâm hại trẻ em thì xâm hại tình dục nổi lên bởi tính chất phức tạp và mức độ tổn hại nặng nề, để lại nhiều di chứng, tổn thương lâu dài. Thời gian gần đây, trên địa bàn tỉnh, tội phạm xâm hại tình dục trẻ em xảy ra ngày càng nhiều và có dấu hiệu gia tăng.
Tình trạng xâm hại tình dục trẻ em đang có chiều hướng gia tăng trong thời gian gần đây - Ảnh minh họa |
Theo thống kê, từ 1/10/2013 - 30/9/2014, toàn tỉnh xảy ra 14 vụ xâm hại tình dục trẻ em. Báo cáo của TAND tỉnh, thời gian trên đã xét xử sơ thẩm 5 vụ, 8 bị cáo trong các vụ án hiếp dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em. Đối tượng phạm tội phần lớn ở độ tuổi từ 16 - 30. Đặc biệt, nếu như những năm trước, xâm hại tình dục thường xảy ra với trẻ trên 10 tuổi thì thời gian gần đây lại xảy ra tình trạng xâm hại tình dục với những trẻ chỉ mới 6 - 7 tuổi. Điều đáng lưu tâm là thủ phạm thường có quan hệ quen biết với gia đình nạn nhân như hàng xóm, bạn bè của bố mẹ, anh em họ hàng…
Trong khi đó, nạn nhân là các cháu nhỏ, không có khả năng tự bảo vệ mình hoặc chưa có ý thức về việc bị xâm hại nên thường không nói với cha mẹ hoặc bị đe dọa nên đã giấu gia đình. Trong khi hầu hết những “yêu râu xanh” thường có quen biết với nạn nhân và lợi dụng sự non nớt, thiếu hiểu biết của trẻ để thực hiện hành vi xâm hại tình dục.
Vào tháng 1/2014, dư luận đã “dậy sóng” bởi vụ việc bé T. (6 tuổi) trú tại xã Lưu Sơn, huyện Đô Lương bị cha con ông Hoàng Đình Thành (SN 1956) trú cùng xã xâm hại tình dục. Chỉ trong vòng 2 tháng (12/2013 - 1/2014), đối tượng H.Đ.B.N. đã 4 lần thực hiện hành vi xâm hại bé T. Đau xót hơn, bé T. không chỉ bị N. xâm hại mà cả ông Thành (cha N.) cũng thực hiện hành vi đồi bại với cháu. Sự việc chỉ bị phát giác vào cuối năm 2013, khi bà Nguyễn Thị Quảng (SN 1964), bà nội bé T. đưa cháu đi tắm thì phát hiện những dấu vết lạ nơi vùng kín.
Vụ việc trên chỉ là một điển hình trong rất nhiều các vụ phạm tội xâm hại tình dục trẻ em mà thủ phạm là hàng xóm, người thân của bị hại (phần lớn là trẻ em ở độ tuổi chưa ý thức được những hệ lụy của tội danh này). Bên cạnh đó, do thiếu hiểu biết và thiếu sự quan tâm của phụ huynh mà một số trẻ bị xâm hại tình dục nhiều lần trong thời gian dài nhưng không được phát hiện, tố giác, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.
Trên thực tế, có nhiều vụ xâm hại tình dục trẻ em nhưng không có đủ cơ sở để đưa đối tượng phạm tội ra pháp luật. Nhiều vụ xâm hại tình dục xảy ra, gia đình biết nhưng vì các lý do khác nhau đã không tố giác tội phạm. Quá trình điều tra, khởi tố vụ án cũng gặp khó khăn vì các nạn nhân và gia đình không khai báo kịp thời hoặc tự giải quyết dẫn đến khai báo muộn, ảnh hưởng tới việc thu thập chứng cứ. Trong khi đó, do thiếu hiểu biết, mang tâm lý mặc cảm nên việc tiếp cận với nạn nhân cũng là một trở ngại.
Chủ động phòng ngừa
Theo bà Nguyễn Thị Mỹ Lương, Phó Trưởng phòng Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em, Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh, có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc xâm hại tình dục với trẻ em. Trong đó, nguyên nhân cần lưu tâm là việc nhiều gia đình thiếu quan tâm đến con cái, thiếu hiểu biết về luật pháp; việc truyền thông, giáo dục các kỹ năng bảo vệ trẻ em cho cha mẹ cũng như kỹ năng tự bảo vệ của trẻ chưa được quan tâm đúng mức.
Khi bị xâm hại, sự ám ảnh, tổn thương sẽ để lại những hệ lụy dai dẳng trong suốt cuộc đời của trẻ.
Để giảm thiểu tình trạng xâm hại tình dục trẻ em, thiết nghĩ, cần có sự chung tay vào cuộc từ nhiều phía: Gia đình, nhà trường, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể. Đặc biệt, cần chú trọng xây dựng hệ thống bảo vệ trẻ một cách hoàn chỉnh từ tuyên truyền, giáo dục, phòng ngừa, phát hiện sớm… đến hỗ trợ, tư vấn tâm lý, pháp lý. Theo các chuyên gia, để hạn chế tình trạng trẻ em bị xâm hại cùng những hệ lụy kéo theo, cần đưa nội dung này vào chương trình giáo dục sức khỏe sinh sản cho trẻ em.
Nhà trường phối hợp với các tổ chức, đoàn thể tăng cường giáo dục kiến thức về giới tính, cũng như các kỹ năng phòng vệ cần thiết để tránh bị xâm hại. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền cho các gia đình về trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc con cái cũng cần được triển khai và nhân rộng, để khi chẳng may trẻ bị xâm hại thì nên đưa trẻ đi giám định kịp thời. Từ đó, góp phần giảm thiểu những tổn thương về mặt thể xác lẫn tâm lý, đồng thời buộc đối tượng phạm tội phải chịu hình phạt thích đáng trước pháp luật.
Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, các giải pháp này dường như chỉ dừng lại ở nỗ lực của một số cơ quan, ban, ngành. Chính sự thiếu và yếu trong công tác phối hợp hành động nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu nạn xâm hại tình dục trẻ em đang là bài toán nan giải trong công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em hiện nay ở nước ta nói chung và trên địa bàn tỉnh nói riêng.
.