Thứ Sáu, 19/07/2019, 09:38 [GMT+7]

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sau 5 năm nhìn lại

Trong 5 năm gần đây, Việt Nam đã hội nhập quốc tế khá toàn diện và đầy đủ trên tất cả các lĩnh vực. Những kết quả quan trọng nổi bật trên các lĩnh vực chính trị, an ninh - quốc phòng, kinh tế, văn hóa - xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo... đã khẳng định chủ trương, chiến lược đúng đắn của Đảng và vai trò quan trọng của công tác hội nhập quốc tế, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực chuyển biến nhanh, phức tạp, khó dự báo.
 
Ảnh minh họa - Nguồn: mic.gov.vn
Ảnh minh họa - Nguồn: mic.gov.vn

Những kết quả nổi bật về hội nhập kinh tế quốc tế

Trong 5 năm qua, tình hình thế giới và khu vực biến chuyển nhanh, phức tạp, tác động sâu rộng đến hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, toàn cầu hóa, hợp tác và liên kết kinh tế đa tầng nấc tiếp tục được thúc đẩy, chủ nghĩa đa phương vẫn được các nước coi trọng, sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã phần nào tác động tích cực đối với tăng trưởng của kinh tế thế giới. Tuy nhiên, chính trị cường quyền tiếp tục diễn ra; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gay gắt, xuất hiện nhiều phương thức, mô hình kinh doanh mới; chủ nghĩa dân tộc và dân túy gia tăng; chủ nghĩa bảo hộ, chống toàn cầu hóa và các thách thức an ninh phi truyền thống, như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, an ninh mạng, an ninh nguồn nước... đặt ra những thách thức mới đối với hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục khẳng định vai trò động lực của tăng trưởng và liên kết kinh tế thế giới, song cũng là khu vực mà các nước lớn tranh giành ảnh hưởng. Các “điểm nóng” khu vực, trong đó có Biển Đông, diễn biến phức tạp. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) tiếp tục triển khai nhiều biện pháp xây dựng cộng đồng, đồng thời đứng trước những thách thức từ sự bất ổn trong nội bộ của một số thành viên và sự khác biệt trong một số vấn đề. Những diễn biến trên đã tác động mạnh mẽ đến triển khai hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, tạo ra những thời cơ, thách thức đan xen.

Thực hiện chủ trương của Đảng coi “hội nhập quốc tế là định hướng lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, giai đoạn 5 năm qua, gắn liền với việc Chính phủ đã triển khai nghiêm túc Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 10-4-2013, của Bộ Chính trị khóa XI, về “Hội nhập quốc tế”, trong đó xác định hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

Trong điều kiện, bối cảnh đó, những nỗ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực cũng như trên thế giới và có triển vọng tốt nhờ kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, lạm phát được kiểm soát, tạo môi trường, động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. 

Tăng trưởng GDP năm 2018 đạt 7,08%, mức cao nhất kể từ năm 2008 trở lại đây, bình quân 3 năm (2016 - 2018) tăng 6,7%, cao hơn tốc độ tăng bình quân 5,91%/năm của giai đoạn 2011 - 2015. Quy mô kinh tế Việt Nam năm 2019 là 5,5 triệu tỷ đồng, tương đương 240,5 tỷ USD, gấp trên 1,3 lần so với năm 2015, hiện đứng thứ 44 trên thế giới theo GDP danh nghĩa và thứ 34 theo sức mua tương đương. GDP bình quân đầu người tăng từ 2.109 USD (năm 2015) lên 2.587 USD (năm 2018), khoảng 7.650 USD theo sức mua tương đương. Năng lực cạnh tranh quốc gia tăng 5 bậc so với năm 2016 (từ vị trí 60/138, lên vị trí 55/137 nền kinh tế); môi trường kinh doanh tăng 14 bậc (từ vị trí 82 lên vị trí 69/190 nền kinh tế). 

Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và phát triển (UNCTAD) đánh giá Việt Nam nằm trong 12 quốc gia thành công nhất về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Hiện nay, có gần 26.000 doanh nghiệp FDI đang hoạt động ở Việt Nam, với số vốn cam kết đầu tư trên 330 tỷ USD đến từ gần 130 quốc gia và đối tác. Việt Nam từng bước trở thành một trong những công xưởng của thế giới về cung ứng hàng điện tử, dệt may, da giầy, điện thoại di động. Khách quốc tế đến Việt Nam ước đạt trên 15 triệu lượt, tăng 1,9 lần so với năm 2015, Việt Nam được bình chọn là điểm đến du lịch hàng đầu châu Á. 

Việt Nam hiện có quan hệ thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã được 71 đối tác công nhận là nền kinh tế thị trường, nhiều sản phẩm dần có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh trên nhiều thị trường có yêu cầu cao về chất lượng, như Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Mỹ... Ở tất cả các thị trường mà Việt Nam có ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đều ghi nhận xuất khẩu tăng trưởng vượt trội hằng năm. Năm 2018, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 245 tỷ USD, tăng 13,8%; xuất siêu đạt 7,2 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến nay.

Đặc biệt, chúng ta đã chủ động, linh hoạt thực hiện thành công việc ký kết và thực thi có hiệu quả các FTA với các đối tác thương mại quan trọng (cũng là đối tác chiến lược) của Việt Nam, như Hàn Quốc, Liên minh Kinh tế Á - Âu (mà trọng tâm là Nga), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)... Trong đó, CPTPP và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) là các FTA thế hệ mới, cấp độ tiêu chuẩn cao hơn, cân bằng lợi ích, toàn diện với những nội dung thương mại phi truyền thống, như di chuyển thể nhân, lao động, công đoàn, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ, doanh nghiệp nhà nước, bảo vệ môi trường...

Ở WTO, Việt Nam đã phê chuẩn và thực thi Hiệp định Tạo thuận lợi thương mại, tích cực bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp Việt Nam trước các vụ kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp. Bên cạnh đó, liên kết kinh tế khu vực cũng được thắt chặt hơn khi Việt Nam chủ động tham gia hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN năm 2015 - Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025, đàm phán Hiệp định Đối tác toàn diện kinh tế khu vực (RCEP) và tăng cường vai trò dẫn dắt chương trình nghị sự thương mại châu Á - Thái Bình Dương qua năm APEC Việt Nam 2017. Việc đàm phán, ký kết và thực thi các FTA, nhất là các FTA thế hệ mới, chủ trì các hội nghị đa phương lớn của Việt Nam trong thời gian qua vừa bảo đảm lợi ích quốc gia, vừa nâng cao đáng kể năng lực và vị thế quốc tế của Việt Nam; từng bước tham gia định hình và dẫn dắt “luật chơi” ở mức độ nhất định.

Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn góp phần đưa Việt Nam trở thành một “mắt xích” quan trọng trong mạng lưới các liên kết kinh tế với các nền kinh tế hàng đầu thế giới mới (gồm 12 FTA đã ký, 4 FTA đang đàm phán bảo đảm cho kết nối thương mại tư do, ưu đãi cao với 60 nền kinh tế, chiếm 90% kim ngạch thương mại của Việt Nam), đồng thời tạo động lực mới và cả “sức ép” mới để thúc đẩy mạnh mẽ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Môi trường pháp lý, chính sách kinh tế, cơ chế quản lý trong nước được cải cách theo hướng ngày càng phù hợp với các cam kết tiêu chuẩn cao trong các FTA và ngày càng minh bạch hơn, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh trong nước ngày càng thông thoáng hơn, tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế cao của khu vực và thế giới,... góp phần tăng trưởng kinh tế ổn định và chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng phát triển các ngành hàng để ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của các thị trường đã có FTA với Việt Nam. 

Để kịp thời chỉ đạo và triển khai công tác hội nhập kinh tế quốc tế, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng và các bộ, ngành, địa phương đã xây dựng các chương trình, hành động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và đặc thù của từng bộ, ngành, địa phương, nhất là việc cụ thể hóa các cam kết FTA đến từng khối ngành hàng, doanh nghiệp và được triển khai rộng rãi với nhiều hình thức phong phú, hiệu quả hơn nhằm đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường thực thi có hiệu quả các FTA mà Việt Nam đã ký kết, góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững. 

Hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị và sự nghiệp của toàn dân, được thực hiện thống nhất từ Trung ương đến địa phương theo tinh thần của Nghị quyết số 22-NQ/TW và Nghị quyết số 06-NQ/TW. Sự thành công của hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn vừa qua đã ghi nhận sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương thông qua cơ chế điều phối liên ngành. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải nhận thấy những hạn chế của hội nhập kinh tế quốc tế trong 5 năm qua, đó là: 

Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế muốn thành công phải trên cơ sở phát huy nội lực của nền kinh tế, nhưng chúng ta chưa làm tốt điều này, trong hội nhập còn thua thiệt, hạn chế, còn xảy ra những vụ kiện tranh chấp. 

Thứ hai, chúng ta vẫn chưa xác lập được một cách thật sự bền vững môi trường kinh doanh và đầu tư thuận lợi cho phát triển kinh tế, quan hệ với một số đối tác thương mại quan trọng của ta còn nhiều trở ngại, nhất là quan hệ của ta với các nước đối tác lớn.

Thứ ba, việc triển khai các cam kết chưa kịp thời, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn chưa nhịp nhàng và đồng bộ. 

Thứ tư, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế chưa được các cấp, các ngành quán triệt đầy đủ, chậm được cụ thể hóa và thể chế hóa; các đơn vị chưa thực sự chủ động tận dụng các cơ hội, cũng như chưa thấy được thách thức mới nảy sinh để chủ động ứng phó, chưa lường trước các tác động tiêu cực từ bên ngoài để có những biện pháp hạn chế hữu hiệu. 

Thứ năm, hội nhập kinh tế quốc tế gắn với yêu cầu nâng cao hiệu quả, phát triển bền vững chưa được tiến hành đồng bộ với quá trình gia tăng liên kết giữa các vùng, miền trong cả nước. Cơ chế chỉ đạo, điều hành, giám sát và phối hợp quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ Trung ương đến địa phương, giữa các ban, ngành còn nhiều bất cập.

Thứ sáu, hội nhập quốc tế về các lĩnh vực khác chưa thực sự gắn kết và tạo tác động tích cực đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; trong nhiều trường hợp còn bị động. 

Một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian tới

Nhận thức được những hạn chế này và quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm trong tiến trình hội nhập quốc tế, góp phần bảo đảm giữ vững an ninh chính trị và ổn định kinh tế - xã hội trong bối cảnh chính trị, kinh tế thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, nền kinh tế nước ta có độ mở cao dễ bị tác động bởi những diễn biến bất lợi bên ngoài; để giai đoạn tới mà trước mắt đến năm 2021, công tác hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đạt được hiệu quả thực chất và lợi ích hội nhập cân bằng hơn, cần thực hiện tốt hơn một số nhiệm vụ, giải pháp sau: 

Một là, thống nhất nhận thức, tiếp tục chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là trọng tâm, hội nhập trên các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế, trở thành động lực quan trọng góp phần hoàn thiện thể chế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tạo lập môi trường kinh doanh và đầu tư thực sự minh bạch, bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài.

Hai là, đổi mới cách thực hiện và nâng cao hiệu quả các cơ chế phối hợp hiện có giữa các ban chỉ đạo liên ngành với nhau và giữa các bộ, ngành, địa phương để phù hợp với những chuyển biến nhanh của tình hình hội nhập kinh tế quốc tế. Vai trò của công tác phối hợp trong nước cần có những bước chuyển quan trọng, làm nền tảng xây dựng các định hướng lớn về hội nhập kinh tế quốc tế tập trung vào phát huy nội lực, nâng cao “quốc lực” của nền kinh tế, tạo nền tảng vững chắc cho hội nhập kinh tế quốc tế thành công hơn nữa. Phát huy mạnh mẽ hiệu lực và hiệu quả của cơ chế liên ngành, nâng cao hiệu quả phối hợp từ Trung ương đến địa phương để hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình triển khai các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, kịp thời tháo gỡ các vướng mắc của doanh nghiệp về các vấn đề chính sách và thực thi cam kết FTA, giúp doanh nghiệp tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp ngày càng phát triển, thực sự là lực lượng nòng cốt của nền kinh tế. 

Ba là, cần có sự đồng bộ về chính sách và thống nhất về hành động từ Trung ương đến địa phương, giữa các bộ, ngành, hiệp hội, doanh nghiệp. Tập trung triển khai hiệu quả các chủ trương, chính sách, chương trình hành động về hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó chú trọng việc nâng cao toàn diện năng lực thực thi các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó, gắn việc thực thi đầy đủ các cam kết về hội nhập kinh tế quốc tế với quá trình rà soát, bổ sung và hoàn thiện pháp luật và thể chế trong nước, hài hòa pháp luật của Việt Nam với các cam kết quốc tế; đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; tăng cường đôn đốc, giám sát và đánh giá tình hình thực thi các cam kết về hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là trong việc ứng phó với sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả các cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp, ngành hàng và quốc gia; đồng thời giải quyết khéo léo các lĩnh vực được coi là nhạy cảm của nền kinh tế trước áp lực cắt giảm thuế quan, như ô-tô, mía đường, gạo, xăng dầu...

Bốn là, các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp cần chủ động nâng cao hiểu biết và vận dụng hiệu quả các luật lệ, quy định về kinh tế, thương mại cũng như tập quán của các thị trường nước ngoài, nhất là các thị trường đã có FTA với Việt Nam, bảo đảm có thể bảo vệ được lợi ích của sản phẩm, doanh nghiệp, quốc gia trong trường hợp xảy ra tranh chấp thương mại. Đây là bài học quan trọng khi các FTA mới mà Việt Nam đang và sẽ thực thi đòi hỏi phải cải cách sâu sắc hệ thống pháp luật trong nước, không chỉ về kinh tế, thương mại mà cả các vấn đề thương mại phi truyền thống, như quyền của người lao động, tiêu chuẩn lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, mua sắm chính phủ... Trong các FTA thế hệ mới, có nội dung nhà đầu tư nước ngoài có thể kiện chính phủ và các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương nước sở tại nếu có các quyết định sai, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ, do đó, việc phân cấp giấy phép đầu tư cho các địa phương cần nâng cao năng lực các cơ quan địa phương, tránh xảy ra kiện. 

Năm là, tập trung phát huy nội lực, nỗ lực vượt qua những khó khăn, thách thức, tận dụng cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư nhằm tranh thủ hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển nền kinh tế. Xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng nền kinh tế có khả năng tự chủ cao, ứng phó được với những biến động kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế với các cam kết càng sâu rộng, mức độ tự do hóa càng cao thì độ mở cửa của nền kinh tế càng lớn, những biến động trên các thị trường tài chính, tiền tệ, hàng hóa thế giới cùng những xung đột, tranh chấp thương mại có tác động nhanh hơn và mạnh hơn đến nền kinh tế nước ta. Do đó, đây là bài học lớn không chỉ cho giai đoạn vừa qua mà còn cho cả những năm tiếp theo. 

Sáu là, chủ động nắm vững thời cơ, nghiên cứu cảnh báo sớm và có bước đi chuẩn bị vững vàng trong thực hiện và đón đầu hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt trước những sức ép về trình độ, tri thức, tay nghề, nguy cơ tranh chấp thương mại quốc tế mà các cơ quan, doanh nghiệp, hiệp hội và người lao động trong nước phải đối mặt. Trong 5 năm qua, chúng ta đã có đội ngũ các nhà đàm phán có kỹ năng về chuyên môn và nghiệp vụ được tạo nền tảng và đào tạo từ giai đoạn đàm phán gia nhập WTO. Kinh nghiệm này cho thấy, để có nguồn nhân lực chất lượng cao cho mỗi giai đoạn phát triển tiếp theo, các cơ quan bộ, ngành hay doanh nghiệp cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đặc biệt trong bối cảnh dịch chuyển các luồng lao động trong khu vực đang diễn ra mạnh mẽ như một xu thế tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế ở mức độ ngày càng sâu rộng. 

Bảy là, không ngừng đổi mới phương pháp để nâng cao hiệu quả và chất lượng các hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ biến, cập nhật tình hình hội nhập kinh tế quốc tế và hướng dẫn cụ thể để doanh nghiệp và người dân có nhận thức đầy đủ hơn, từ đó có thể chủ động ứng phó và vượt qua thách thức, tận dụng tối đa các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế; tạo sự kiên định và đồng thuận cao trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của Việt Nam. Các cơ quan truyền thông cần khách quan khi đưa tin, bài, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và hoạt động xuất khẩu./.

.

Nguồn: Tạp chí Cộng sản