(Congannghean.vn)-Chiến dịch Tây Nguyên (4/3 - 3/4/1975) có ý nghĩa chiến lược to lớn, đánh tan phòng tuyến quan trọng của Nguỵ quân ở Buôn Mê Thuột, mở màn cho thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975). Mặc dù đã 45 năm trôi qua nhưng những ký ức hào hùng đó vẫn còn vẹn nguyên trong tâm trí của 2 cựu chiến binh người dân tộc Thái - những nhân chứng lịch sử, những chiến sĩ Sư đoàn 316, Quân đoàn 3 ngày ấy.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa thất bại thảm hại và phải tháo chạy khỏi Tây Nguyên - Ảnh tư liệu |
Là những người con của đồng bào dân tộc Thái nơi núi rừng Tây Bắc Nghệ An, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, tháng 10/1974, hai ông đã cùng nhau xung phong nhập ngũ, phiên chế vào Tiểu đoàn 25, Sư đoàn 316, Quân đoàn 3. Sau hơn một tháng rưỡi huấn luyện thì đơn vị hai ông hành quân tiến vào mặt trận B3 Tây Nguyên. Chặng đường hành quân đi dọc đường Trường Sơn qua đường 9 - Nam Lào, sau đó rẽ vào đường mòn Hồ Chí Minh, qua Khe Sanh để tiến quân vào Ngã ba Đông Dương. “Đó là quãng thời gian đầy gian nan, khó khăn và vất vả mà những người lính trẻ mới nhập ngũ như chúng tôi phải trải qua, khi đối mặt là “mưa dầm, cơm vắt”, địa hình thì hiểm trở, khí hậu thì khắc nghiệt, độc hại... Dù khó khăn là vậy, nhưng mỗi người chúng tôi, ai ai cũng vững một niềm tin, một ý chí quật cường, vượt qua gian khó hành quân để đảm bảo tập kết đúng thời gian theo kế hoạch của chiến dịch”, cựu chiến binh Lang Quốc Chính bồi hồi nhớ lại.
Tiếp đó, đơn vị hai ông hành quân trong rừng liên tục 1 tuần liền mới đóng quân tại địa điểm được gọi là A2, cách TX Buôn Mê Thuột khoảng 30 km để chuẩn bị cho trận đánh tại chiến trường B3 Tây Nguyên. “Đối với lực lượng hành quân luôn phải bảo đảm bí mật, ngụy trang kỹ lưỡng, ngày vào rừng, tối hành quân và đi đến đâu ngụy trang, xóa dấu vết đến đó. Hành quân liên tục và khi đến nơi thì chúng tôi mới biết đó là đánh chiến trường B3 Tây Nguyên”, cựu chiến binh Vi Văn Chung cho biết.
Hai cựu chiến binh Lang Quốc Chính và Vi Văn Chung cùng nhau xem lại những kỷ vật thời chiến đấu |
Tại địa điểm A2, do yêu cầu bí mật của chiến dịch rất cao nên các đơn vị tham gia chiến đấu phải thực hiện theo những quy định nghiêm ngặt. Trong khi đó, từ vị trí tập kết đến TX Buôn Mê Thuột đường rất xa, cùng với đó là vận chuyển một lượng vũ khí và khí tài quân sự lớn... nên việc tiến vào trận địa theo đúng thời gian quy định hết sức khó khăn, đòi hỏi mỗi lực lượng hành quân phải có tinh thần trách nhiệm cao, trình độ tổ chức vững vàng, chấp hành nghiêm kỷ luật, kỷ cương mới hoàn thành được nhiệm vụ theo quân lệnh cấp trên.
Đến đêm 9/3/1975, nhận được lệnh tiến công căn cứ nơi quân Nguỵ đóng ở cứ điểm 500, từ các hướng, quân ta nổ súng tiến công vào TX Buôn Mê Thuột. Mở đầu là trinh sát và đặc công phá tan lô cốt, hàng rào, đồng thời phối hợp với các lực lượng đánh tan cứ điểm quân địch. Sáng 10/3/1975, đơn vị 2 ông phối hợp với các đơn vị khác đã tiến vào thị xã, chiếm cứ, tiến hành truy kích và bắt được rất nhiều quân địch đầu hàng. Cựu chiến binh Lang Quốc Chính - người tham gia trận đánh quyết định, giải phóng Buôn Mê Thuột, kể lại: “Lúc cùng đồng đội đánh tan cứ điểm 500, từ cứ điểm nhìn xuống TX Buôn Mê Thuột, tâm trạng chúng tôi vui sướng, phấn khởi vô cùng”.
Với cuộc tiến công của Quân đoàn 3 nói chung, Sư đoàn 316 nói riêng ngày đó, lực lượng của địch ở Buôn Mê Thuột đã hoàn toàn bị tan rã. Sau chiến thắng ở Buôn Mê Thuột, hai ông cùng đồng đội tiếp tục hành quân vào Trảng Bàng, Tây Ninh, thuộc vùng ngoại ô của Sài Gòn để phối hợp với các sư đoàn khác tiến vào dinh Độc Lập, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Với người cựu binh Lang Quốc Chính, giây phút lá cờ Tổ quốc tung bay trên dinh Độc Lập trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 ngày ấy, mãi mãi in sâu trong tâm thức của ông. "Những năm tháng ấy, trận đánh ấy trong tâm thức mỗi chúng tôi chỉ có tinh thần quyết chiến, tinh thần đồng chí, đồng đội, tinh thần dân tộc, mãi mãi không bao giờ quên”, ông Chính xúc động nhớ lại.
Sau chiến thắng lịch sử năm 1975, hai ông cùng đồng đội thuộc Sư đoàn 316 tiếp tục được lệnh hành quân ra Bắc và đóng quân tại tỉnh Hoàng Liên Sơn cũ, nay là các tỉnh Yên Bái, Lào Cai,... để tiếp tục tham gia chiến đấu bảo vệ chủ quyền biên giới.
Được biết, ông Lang Quốc Chính xuất ngũ năm 1993, về địa phương làm Đội trưởng Đội sản xuất Nông nghiệp, bản Đồng Minh. Đến năm 2004, ông làm Phó Chủ tịch HĐND xã Châu Hạnh và về hưu từ năm 2018. Sau đó, ông tham gia sinh hoạt tại Hội Cựu chiến binh huyện Quỳ Châu cho đến nay. Còn với cựu chiến binh Vi Văn Chung, ông tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trên tuyến biên giới Phong Thổ, tỉnh Lai Châu năm 1979. Đến năm 1988, ông được điều động tham gia chiến đấu ở khu vực biên giới Hà Tuyên. Sau đó, ông xuất ngũ năm 1990 và trở về địa phương giữ các chức vụ như: Công an viên, Bí thư chi bộ, Trưởng bản…Trở về địa phương, dù công tác ở cương vị nào thì 2 người cựu chiến binh vẫn luôn phát huy bản lĩnh người lính năm xưa; gương mẫu, nhiệt tình trong công việc cũng như trong cuộc sống đời thường; luôn là tấm gương sáng cho con cháu học tập và noi theo.
Qua những Huân chương, Huy chương cùng những tấm hình đã phai màu, chiếc bi đông, cặp lồng... - những kỷ vật ghi dấu một thời khói lửa, bom đạn luôn được hai ông cất giữ một cách cẩn thận mới thấu hiểu được rằng, với những người lính tham gia chiến trường năm xưa, đó là những kỷ niệm mãi không quên của một thời tuổi trẻ, cống hiến, chiến đấu hết mình trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước.
.