Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và di huấn của Người về xây dựng một Đảng cách mạng luôn phụng sự và liêm chính, luôn trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh” không chỉ là tất yếu khách quan, là yêu cầu và nhiệm vụ của một Đảng cầm quyền mà còn là trách nhiệm của những người cộng sản Việt Nam trước lịch sử, nhân dân và dân tộc, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, trách nhiệm và uy tín của đội ngũ cán bộ, đảng viên trước Tổ quốc và Nhân dân.
Luôn chú trọng xây dựng và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng cách mạng phụng sự và liêm chính, được nhân dân tin yêu và ủy thác, vì thế, trước khi đi xa, Hồ Chí Minh dặn lại trong Di chúc: “Đảng là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng. Phải thật sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[1].
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG PHỤNG SỰ VÀ LIÊM CHÍNH
Ngay từ khi chuẩn bị chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định trong tác phẩm Đường Cách mệnh (xuất bản năm 1927): “Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mạng thành công thì phải lấy dân chúng công nông làm gốc”[2]. Sau này, khi nói về Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động, chứ không mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào”[3].
Lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã chứng minh rằng, cùng với mỗi bước ngoặt của cách mạng, tình hình và nhiệm vụ của Đảng cũng có sự thay đổi. Song, ở đâu và lúc nào, dù hoạt động bí mật hay đã cầm quyền, thì Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng cũng luôn thấu triệt rằng: Đảng cầm quyền, nhưng nhân dân là chủ, quyền là do nhân dân ủy nhiệm, nên đó phải là một Đảng luôn phụng sự (dốc lòng phục vụ, tận tụy phục vụ: phục vụ Tổ quốc[4]) và liêm chính (trong sạch, ngay thẳng: người liêm chính không có lòng tư túi[5]), để xứng đáng vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Trong di sản để lại, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ quan điểm của Người về yêu cầu xây dựng một Đảng phụng sự và liêm chính qua các tác phẩm: Chính phủ là công bộc của dân (19/9/1945); Sao cho được lòng dân (12/10/1945); Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (17/10/1945); Sửa đổi lối làm việc (10/1947); Dân vận (15/10/1949); Tinh thần và trách nhiệm (13/12/1951); Tự phê bình và phê bình (14/2/1952); Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu (3/1952); Phải xem trọng ý kiến của quần chúng (21/8/1956); Đạo đức cách mạng (12/1958); Nói chuyện tại hội nghị thanh tra (5/3/1960); Một lòng một dạ phục vụ nhân dân (18/1/1961); Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (3/2/1969); Di chúc (1969),v.v..
Vì, “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”[7] và “trong xã hội, không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”[8], nên Hồ Chí Minh xác định Đảng Cộng sản Việt Nam phải là một Đảng liêm chính. Theo đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, nhất là phải có và thường xuyên rèn luyện 5 đức tính tốt: “a) NHÂN là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân, vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền. b) NGHĨA là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng, ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất cứ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng đúng đắn. c) TRÍ là vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người. Biết xét việc. Vì vậy, mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cân nhắc người tốt, đề phòng người gian. d) DŨNG là dũng cảm, gan góc, gặp việc là phải có gan làm. Thấy khuyết điểm phải có gan sửa chữa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng. Có gan chống lại sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc. đ) LIÊM là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ là ham học, ham làm, ham tiến bộ”[9]. Mỗi cán bộ, đảng viên phải là vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ, công bộc của nhân dân nên phải luôn “đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết; Liên hệ chặt chẽ với nhân dân; Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ; Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê bình mình; Sẵn sàng học hỏi nhân dân; Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, để nhân dân noi theo. Cán bộ Đảng và chính quyền ta đều sẵn lòng cầu tiến bộ, sẵn chí phụng sự nhân dân”[10], để được nhân dân tin yêu và gắn bó.
Đồng thời, để phụng sự và liêm chính được tốt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên rèn luyện tinh thần, ý chí: “Tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, “ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng”; “là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn dùng tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình tiến bộ”; “vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết” và “hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến quần chúng”[11]; “vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu”…
Tuy nhiên, sớm tiên lượng nguy cơ suy thoái của đội ngũ cán bộ, đảng viên khi được trao/ủy quyền, Hồ Chí Minh chỉ rõ, “những người ở các công sở, từ làng cho đến Chính phủ trung ương, đều dễ tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ, hoặc đục khoét nhân dân”. Do đó, để ngăn ngừa tình trạng “tư túi”, không “dốc lòng phục vụ, tận tụy phục vụ” Tổ quốc và nhân dân, Hồ Chí Minh đã cảnh báo: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”[12]. Cụ thể, theo Hồ Chí Minh: Muốn liêm chính, “những người trong công sở phải lấy chữ Liêm làm đầu… Mình là người làm việc công, phải có công tâm, công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công bình, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người tài năng, làm được việc… Chớ lên mặt làm quan cách mệnh”[13]… Đồng thời, để phụng sự tốt, mỗi cán bộ, đảng viên “cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”[14] để không chỉ lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội mà còn phải “luôn luôn quan tâm đến những việc nhỏ như tương cà mắm muối cần thiết cho đời sống hàng ngày của nhân dân”, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thực hiện theo những chỉ dẫn của Người, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây dựng hệ thống tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở vững mạnh về mọi mặt; xây dựng và phát triển đội ngũ đảng viên vừa hồng, vừa chuyên, có đủ phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo, xứng tầm với nhiệm vụ được giao. Trong mọi thời điểm, Đảng đều tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc xây dựng Đảng: Tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh; đoàn kết thống nhất; gắn bó mật thiết với nhân dân, v.v.. Đồng thời, mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên đã luôn kế thừa, phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất trong tư tưởng và hành động; truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất và giữ kỷ luật nghiêm minh; tính tiền phong gương mẫu, sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn gian khổ, chịu đựng hy sinh, phấn đấu vì mục đích, lý tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, v.v.. để xứng đáng với vai trò tiền phong, để làm tròn bổn phận phụng sự và giữ nghiêm tính liêm chính.
TIẾP TỤC XÂY DỰNG ĐẢNG PHỤNG SỰ VÀ LIÊM CHÍNH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU TÌNH HÌNH VÀ NHIỆM VỤ
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh hiểu rất rõ rằng: “Tất cả các đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo ra sức mạnh của mình, vì sợ sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình”[15], nên nhấn mạnh thang thuốc đặc hiệu để nhìn nhận, đánh giá khuyết điểm, sửa chữa sai lầm chính là phải hằng ngày, liên tục tự phê bình và phê bình gắn với việc kiểm tra và giám sát chặt chẽ từ chương trình hành động, kế hoạch của cấp ủy đến của mỗi cán bộ, đảng viên. Thông qua đó, củng cố và tăng cường khối đoàn kết, thống nhất trong nội bộ, nhất là ở bộ chỉ huy tối cao (Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư).
Cũng trên cơ sở nhận thức sâu sắc rằng, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, dạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, ở cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp cao sẽ làm cho sức chiến đấu của Đảng bị tê liệt, nguồn sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân cũng vì thế mà suy kiệt, nên trong Di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn“trước hết nói về Đảng” và chỉ rõ: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”[16].
Không chỉ khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh còn từ sự tiên liệu về sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên khi đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình và căn dặn trong Di chúc việc phải làm trước tiên là về Đảng. Thực tế, “chỉnh đốn lại Đảng” là yêu cầu khách quan, tất yếu, là công việc nội tại, thường xuyên của Đảng cầm quyền, để “làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”[17]. Hơn nữa, vì “Đảng ta một đảng cầm quyền”, nên muốn ra sức làm tròn nhiệm vụ trước Tổ quốc và nhân dân, muốn liêm chính và phụng sự trong tư tưởng và hành động, Đảng phải tập trung thực hiện 3 nội dung chính: 1) “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. 2) “Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”[18]. 3) “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” [19]. Đây chính là những nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận xây dựng một Đảng phụng sự và liêm chính; là văn hoá Đảng, là bản chất tâm hồn và đạo đức dân tộc Việt mà Đảng là đại diện, đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ của một Đảng cách mạng chân chính.
Từ thực tiễn cách mạng; từ tấm gương cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cùng những lời căn dặn đầy tâm huyết của Người trong các trước tác, đặc biệt là bản Di chúc lịch sử về công tác xây dựng và chỉnh đốn đảng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn tự chỉnh đốn, đổi mới để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Sau hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đã tránh được những sai lầm cố hữu và những tổn thất do chủ quan duy ý chí, để đưa đất nước ngày một phát triển. Sau 50 năm thực hiện Di chúc của Hồ Chí Minh về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được khẳng định. Vai trò đó thể hiện rõ ở đường lối chính trị đúng đắn, ở sự kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; ở bản lĩnh chính trị vững vàng của đội ngũ cán bộ, đảng viên khi dũng cảm, thẳng thắn thừa nhận sai lầm, khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân; ở tinh thần chủ động đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, phê phán và bác bỏ những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Vai trò đó còn thể hiện ở quá trình Đảng lãnh đạo và tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối, nhất là ở vào những thời điểm cam go, bước ngoặt khó khăn, thử thách của cách mạng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm trong công tác xây dựng một Đảng cách mạng phụng sự và liêm chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là: 1) Sự dao động chính trị, tha hóa đạo đức, sự mất ổn định vững chắc về tư tưởng, tinh thần và sự nao núng, ngả nghiêng của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong tư tưởng và hành động trước sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Từ sự giảm sút niềm tin xã hội chủ nghĩa, “nhạt Đảng”, “nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa”, nhận thức mơ hồ, lệch lạc về chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội, về đường lối, chủ trương của Đảng,v.v.. dẫn đến không dám hoặc không dám công khai đấu tranh với các quan điểm, hành vi trái với quan điểm của Đảng. Thậm chí có người còn a dua, cổ súy cho những tư tưởng đó; mất phương hướng tư tưởng, mất khả năng chủ động kiểm soát và điều chỉnh hành động của mình dẫn đến rơi vào tình trạng khi tả khuynh khi hữu khuynh, khi tự phát manh động khi phiêu lưu chính trị... 2) Thói thực dụng trong chính trị và đạo đức, thể hiện trong tư tưởng, hành động và lối sống. Với những người này, những gì mang lại lợi ích cho mình và phe nhóm mình là quan trọng nhất và trước hết mà không cần biết tới lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Thậm chí, họ không từ một thủ đoạn nào để chiếm đoạt cho lợi ích riêng của mình và phe nhóm mình,v.v.. 3) Tham nhũng chính trị, tha hóa quyền lực khi tự cho mình quyền “sở hữu”, “hiện thân” quyền lực chính trị mà nhân dân ủy thác, để trao đổi, ban phát, trục lợi cho mình và nhóm lợi ích của mình, dẫn đến hình thành tệ nạn gian dối trước cấp trên, cấp dưới và nhân dân; tệ ăn trộm chức quyền như lạm quyền, lợi dụng quyền; tệ nạn chạy chức quyền, tuổi tác, luân chuyển, bằng cấp; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ... Những thói hư, tật xấu của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên không còn phụng sự và liêm chính như Hồ Chí Minh căn dặn này đã dẫn đến tình trạng cánh hẩu, phường hội cát cứ, phe nhóm lợi ích, địa phương chủ nghĩa theo kiểu “trên có chính sách, dưới có đối sách”, hành xử theo lối “nói một đằng, làm một nẻo” miễn là lợi ta mà không màng đến người chung quanh, xâm hại lợi ích chung, làm phân liệt ý chí và tan rã sức mạnh của từng cơ quan, địa phương, đơn vị…
Vấn đề này, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ” ngày 30/10/2016 đã chỉ rõ; đồng thời, nhận diện và chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện. Cụ thể là: “Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao”; “quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân”… Từ đó, Nghị quyết nhấn mạnh: “Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên và để xây dựng Đảng thật trong sạch, vững mạnh luôn phụng sự và liêm chính ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, các cấp ủy Đảng, chính quyền và ban, ngành chức năng tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị tăng cường bám sát thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn để nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo và chỉ đạo (từ quán triệt đến đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống) trên tinh thần: “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, phải hết sức tránh”. Nói đi đôi với làm và phải luôn hướng về cơ sở, gần dân, hiểu dân, trọng dân, tin dân, học dân, dựa vào dân để không chỉ đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị mà còn củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; dựa vào nhân dân để kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, thiết thực xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thứ hai, nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng; gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ" với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, với Quy định về những điều đảng viên không được làm, với các quy định nêu gương,v.v.. Mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng phải thường xuyên, liên tục rèn luyện đạo đức cách mạng, phòng, chống và quét sạch chủ nghĩa cá nhân gắn với đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu,v.v.. theo chương trình hằng năm và đột xuất tại mỗi tổ chức cơ sở Đảng để nâng cao tinh thần phụng sự và liêm chính.
Thứ ba, xây đi đôi với chống: tập trung xây dựng và hoàn chỉnh cơ chế phòng ngừa, kiểm soát quyền lực, đảm bảo mọi quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân gắn với chống sự tha hóa quyền lực; đảm bảo công khai và minh bạch trong thực thi chức năng, nhiệm vụ, trong thực thi quyền lực công theo phương châm cấp trên làm gương cho cấp dưới noi theo; quyết liệt và nghiêm khắc trong công tác kiểm tra, giám sát gắn với tự phê bình và phê bình, đảm bảo trên dưới phối hợp, trong ngoài đồng bộ. Thông qua đó, một mặt ngăn chặn những biểu hiện tha hóa quyền lực như lạm quyền, lộng quyền, trục lợi từ quyền, kéo bè kết cánh, “đầu cơ chính trị”, quan hệ “lợi ích nhóm”, xa rời lý tưởng xã hội chủ nghĩa, sa đọa về đạo đức, lối sống v.v..; mặt khác, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, phòng và chống sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, ngăn ngừa sự dao động trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Thứ tư, tiếp tục xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước, địa phương nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Không để quyền làm chủ của nhân dân chỉ dừng lại ở khẩu hiệu mà phải là hành động, là những việc làm cụ thể, phải tạo điều kiện và có cơ chế để thực thi định chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thật sự và hiệu quả. Coi sự đánh giá của nhân dân là thước đo, là một trong những tiêu chuẩn đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm của cấp ủy các cấp, của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong mọi mặt công tác, nhất là trong quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ các cấp.
Thứ năm, mở rộng và đổi mới công tác truyền thông để không chỉ định hướng đúng, kịp thời, đảm bảo sức mạnh của công luận và nhân dân mà còn làm cho việc tuyên truyền các tấm gương người tốt, việc tốt, lấy cái tích cực chống cái tiêu cực, lấy cái đẹp dẹp cái xấu được nhân rộng trong cộng đồng bằng nhiều hình thức phong phú. Đồng thời, phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông, của cả hệ thống chính trị tham gia công tác xây dựng Đảng; tham gia giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên ở mọi nơi, mọi lúc. Đẩy nhanh xét xử những vụ án tham ô, tham nhũng nghiêm trọng trên tinh thần thấu triệt nguyên tắc pháp luật là thượng tôn, kỷ luật Đảng, Điều lệ Đảng là tối thượng, để không chỉ kịp thời, công minh, bình đẳng, đúng đắn đưa ra khỏi Đảng những kẻ sâu mọt không còn phụng sự và liêm chính mà còn thiết thực làm trong sạch Đảng, làm cho Đảng mạnh khỏe, chắc chắn như Hồ Chí Minh mong muốn.
Một Đảng cách mạng chân chính luôn phụng sự Tổ quốc và nhân dân theo Hồ Chí Minh phải tuân thủ 12 điều sau: “1. Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. 2. Cán bộ của Đảng phải hiểu biết lý luận cách mạng và lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau. 3. Khi đặt ra khẩu hiệu và chỉ thị, luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và kinh nghiệm cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương. 4. Phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị đó có đúng hay không. 5. Phải luôn luôn xem xét lại tất cả công tác của Đảng. Mọi công tác của Đảng luôn luôn phải đứng về phía quần chúng. Phải đem tinh thần yêu nước và cần, kiệm, liêm, chính mà dạy bảo cán bộ, đảng viên và nhân dân. 6. Mỗi công việc của Đảng phải giữ nguyên tắc và phải liên hợp chặt chẽ với dân chúng. Nếu không vậy, thì chẳng những không lãnh đạo được dân chúng mà cũng không học được dân chúng. Chẳng những không nâng cao được dân chúng, mà cũng không biết ý kiến của dân chúng. 7. Mỗi công việc của Đảng phải giữ vững tính cách mạng của nó, lại phải khéo dùng những cách thức thi hành cho hoạt bát. Nếu không vậy thì không biết nắm vững các cách thức tranh đấu và các cách thức tổ chức, không biết liên hợp lợi ích ngày thường và lợi ích lâu dài của dân chúng. 8. Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ và đảng viên. 9. Đảng phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo. 10. Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài. 11. Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống dưới. Kỷ luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí. Kỷ luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với Đảng. 12. Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”[6]. Trích Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (bản công bố năm 1969): TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. |
TS. Văn Thị Thanh Mai
Ban Tuyên giáo Trung ương