(Congannghean.vn)-Những ngày qua, sự ra đi đột ngột của một nữ sinh có tiền sử bệnh động kinh học lớp 6, Trường THCS Phan Bội Châu (quận Tân Phú, TP Hồ Chí Minh), sau khi bị cô giáo dạy môn Công nghệ dùng thước đánh vào mông vì nói chuyện trong lớp và không thuộc bài đã tạo sự quan tâm, chú ý đặc biệt của nhiều người. Sau khi sự việc đáng tiếc xảy ra, cô giáo này đã đến xin lỗi gia đình với những giọt nước mắt ăn năn, hối lỗi.
Đáng nói là, phía người nhà bị hại đã không yêu cầu cơ quan Công an vào cuộc, điều tra, xử lý vì với suy nghĩ “Cô còn trẻ nên gia đình không muốn làm ảnh hưởng đến tương lai và công việc của cô”. Có thể nói, đây là cách hành xử vị tha, đầy tính nhân văn đối với người đã gây ra lỗi lầm mà không phải ai cũng có thể làm được. Từ sự việc đáng tiếc trên, một lần nữa, vấn đề giáo viên có nên sử dụng hình thức roi vọt để giáo dục học sinh lại được đặt ra.
Quan điểm “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” đã trở thành nếp nghĩ của nhiều người từ trước tới nay. Với không ít giáo viên, việc giáo dục học sinh theo kiểu “thương cho roi” cũng không có gì phải đáng bàn bởi họ cho rằng, việc sử dụng roi vọt cũng là một hình thức phạt học sinh. Khi bị phạt nặng, học sinh sẽ biết vâng lời hơn, học được những điều hay lẽ phải và không tiếp tục phạm lỗi. Một số người còn cho rằng, trước đây, cha mẹ, ông bà và thầy cô cũng “được” áp dụng hình thức xử phạt đó nên bây giờ, họ mới nên người.
Ảnh minh họa |
Bởi vậy, giờ đây, họ áp dụng các hình thức này với học sinh để các em tiến bộ hơn thì không có gì sai cả. Thực tế, trước đây, một số thầy cô cũng dùng đòn roi nhưng chỉ dừng lại ở mức độ nhẹ nhàng. Sau đó, quan trọng là những lời động viên, tâm sự với học sinh về những điều đúng, sai. Nhờ đó, học sinh ai nấy cũng đều nhớ đến thầy cô với những đòn roi và lời động viên ân cần, chỉ bảo. Biết bao thế hệ học trò đỗ đạt cao rồi đi học xa, làm xa nhưng vẫn luôn hướng về thầy, cô giáo cũ với tấm lòng biết ơn, tôn kính.
Ngày nay, việc giáo dục học sinh đã có nhiều thay đổi. Đối tượng giáo dục của giáo viên là những lớp học sinh mới, nhanh nhạy, năng động nhưng cũng ngỗ nghịch và bướng bỉnh hơn. Người thầy không còn nắm giữ vị trí độc tôn, mối quan hệ thầy - trò cũng dần thay đổi theo hướng dân chủ hơn. Trong hoàn cảnh đó, việc sử dụng hình thức roi vọt để giáo dục học sinh xem ra không còn phù hợp, thậm chí, trong một số trường hợp còn phản tác dụng, gây ra những hậu quả đáng tiếc.
Những đòn roi nặng nề không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe mà còn có thể gây ra những tổn thương về mặt tinh thần. Theo các chuyên gia tâm lý, roi vọt là một hình phạt không nên lạm dụng. Việc thường xuyên bị đánh đòn rất dễ khiến trẻ lớn lên trong sợ hãi, nhút nhát hoặc trở nên chai lì cả về thể xác lẫn tinh thần. Điều đáng quan ngại là, khi cha mẹ, thầy cô thường xuyên đánh phạt, trẻ có thể phát sinh tâm lý thích sử dụng bạo lực với người khác. Điều này dẫn dến tình trạng nhiều thanh, thiếu niên dùng bạo lực để tấn công những người họ ghét, họ cho là “hư” và cần được “dạy”.
Không thể phủ nhận, nghề giáo hiện nay đang phải đối mặt với không ít áp lực. Từ những áp lực về chuyện cơm áo, mưu sinh đến những áp lực về thành tích, hồ sơ, sổ sách… Tuy nhiên, không phải vì thế mà giáo viên tìm cách giải tỏa áp lực lên học sinh qua những hình phạt bằng roi vọt. Thay vì lạm dụng hình phạt, giáo viên cần áp dụng các biện pháp khác để ngăn chặn những hành vi sai phạm của học sinh. Khi buộc phải đưa ra những hình phạt, giáo viên phải đảm bảo hình phạt hoàn toàn công bằng, hợp lý, tránh yếu tố bạo lực và phải mang tính chất giáo dục, hướng thiện.
Đặc biệt, nên áp dụng việc kỷ luật “không nước mắt”, nghĩa là có thể kỷ luật theo các mức độ khác nhau khi học sinh vi phạm nhưng không sử dụng roi vọt mà chủ yếu là bằng tấm lòng yêu thương, sự cảm hóa xuất phát từ cái tâm của mỗi người thầy. Để làm được điều này, trước hết, giáo viên phải thường xuyên trau dồi bản thân, đảm bảo tính chuẩn mực, mô phạm cần có. Một giáo viên thường xuyên đến lớp muộn thì không thể trách phạt học sinh lỗi vi phạm này.
Cũng vậy, một giáo viên có tác phong không chuẩn mực thì học sinh sẽ không tôn trọng, đến khi những giáo viên này sử dụng các hình phạt thì các em rất dễ phản ứng lại. Không phải ngẫu nhiên, những vụ bạo hành đối với học sinh thường rơi vào những giáo viên trẻ. Trong các trường đào tạo sinh viên sư phạm hiện nay, việc hình thành kỹ năng ứng xử sư phạm cho sinh viên đang có phần hạn chế. Chưa có nhiều kinh nghiệm ứng xử sư phạm, lại phải chịu áp lực không nhỏ từ nhiều phía, giáo viên rất dễ có những hành động không tốt do xuất phát từ sự nóng giận, bột phát nhất thời.
Do đó, khả năng tiết chế, kiểm soát cảm xúc là hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên. Việc giáo dục một lớp học sinh mới, có xu hướng bộc lộ cái “tôi” ngày càng mạnh hơn không phải là điều dễ dàng nhưng nếu giáo viên thường xuyên quan tâm, gần gũi, hiểu được tâm sinh lý của từng đối tượng học sinh, biết phối hợp với phụ huynh để cùng uốn nắn thì những khó khăn sẽ được tháo gỡ.
Thời nào cũng vậy, chính tình yêu thương, sự sẻ chia chân thành và sự công bằng của thầy cô sẽ cảm hóa và điều chỉnh được nhận thức của học sinh, nhất là với những học sinh cá biệt. Hạn chế đi đến chấm dứt những hành vi bạo lực từ giáo viên và học sinh chính là nhằm hướng tới môi trường giáo dục thân thiện, cởi mở, phù hợp với xu thế hiện nay.
.