Văn hóa - Giáo dục
Kỷ niệm 112 năm ngày sinh Tổng Bí thư Lê Hồng Phong (6/9/1902 - 6/9/2014)
Lý tưởng sắt son vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc
07:59, 06/09/2014 (GMT+7)
(Congannghean.vn)-Tổng Bí thư Lê Hồng Phong tên thật là Lê Huy Doãn, sinh ra tại làng Đông, xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, thuộc vùng đất giàu truyền thống yêu nước, được giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Trải qua chặng đường bôn ba hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Hồng Phong sớm trở thành chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của Ðảng và nhân dân ta, là Tổng Bí thư thứ hai của Ðảng, là người học trò gương mẫu và xuất sắc của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 1/1924, lúc chưa đầy 22 tuổi, đồng chí Lê Hồng Phong đã cùng đồng chí Phạm Hồng Thái sang Xiêm (nay là Thái Lan) rồi sang Quảng Châu (Trung Quốc) tìm đường cứu nước. Tháng 4/1924, đồng chí gia nhập Tâm tâm xã, một tổ chức cách mạng do Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn thành lập. Tháng 3/1925, đồng chí tham gia nhóm cách mạng đầu tiên gồm 9 người, do Nguyễn Ái Quốc tổ chức và sau đó được kết nạp làm đảng viên cộng sản dự bị. Cũng trong năm 1925, Lê Hồng Phong dự lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc vừa là người phụ trách, đồng thời là giảng viên chính. Năm đó, Lê Hồng Phong tham gia Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội và cùng với Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn... điều hành các công tác của Tổng bộ. Tiếp đó, với sự giới thiệu của Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Phong được vào học Trường Võ bị Hoàng Phố. Trong thời gian này, Lê Hồng Phong còn tham gia hoạt động trong Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Nguyễn Ái Quốc và một số nhà cách mạng châu Á thành lập.
Đồng chí Lê Hồng Phong |
Tháng 2/1926, Lê Hồng Phong được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 10/1926, đồng chí được cử sang Liên Xô theo học tại Trường Lý luận quân sự không quân ở Lêningrát (nay là thành phố Xanh Pêtécpua) và tiếp tục theo học Trường đào tạo phi công quân sự ở Bôrítxgơlépxcơ. Trong 3 năm (từ 1928 - 1931), đồng chí theo học tại Trường Đại học Phương Đông, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Liên Xô và sau khi hoàn thành chương trình đại học, đồng chí đã được chuyển tiếp làm nghiên cứu sinh.
Tháng 11/1937, Lê Hồng Phong bí mật về Sài Gòn, cùng Trung ương tích cực chỉ đạo việc thực hiện chủ trương chiến lược mới của Đảng. Nắm sát tình hình thực tế, Lê Hồng Phong đã cùng với Trung ương Đảng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Văn Cừ, quyết định chuyển Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương thành Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương (gọi tắt là Mặt trận dân chủ Đông Dương), nhằm tập hợp rộng rãi hơn nữa đông đảo quần chúng, tranh thủ hơn nữa mọi lực lượng có thể tranh thủ. Mặt trận dân chủ Đông Dương không chỉ bao gồm những lực lượng có tinh thần phản đế mà còn mở rộng đến các tầng lớp tư sản, địa chủ, các đảng phái cải lương có tiến bộ, các thủ lĩnh dân tộc, tôn giáo, tán thành đấu tranh vì tự do, cơm áo, hòa bình. Mặt trận không chỉ bao gồm những người tán thành dân chủ thuộc ba nước ở Đông Dương, mà còn bao gồm cả những ngoại kiều, những người Pháp tán thành các khẩu hiệu đó.
Giữa lúc những chủ trương đúng đắn của Đảng đang được sự hưởng ứng mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân, thúc đẩy họ đấu tranh giành nhiều thắng lợi mới, thì Lê Hồng Phong bị bắt ngày 22/6/1938. Bọn mật thám dùng mọi thủ đoạn tra tấn, dụ dỗ nhưng đồng chí nhất quyết không khai. Không đủ chứng cứ để buộc tội, tòa án của đế quốc Pháp đành kết án đồng chí sáu tháng tù giam và ba năm quản thúc với lý do dùng thẻ căn cước giả. Trong thời gian bị quản thúc ở quê nhà, Lê Hồng Phong đã viết nhiều bài đăng trên các báo công khai của Đảng làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng trong tình hình mới, nhằm tranh thủ tập hợp rộng rãi các lực lượng dân chủ và tiến bộ để đấu tranh đòi tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh.
Cuối năm 1940, khi đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai bị bắt, đế quốc Pháp đã ghép thêm tội cho Lê Hồng Phong và đày ra Côn Đảo. Biết Lê Hồng Phong là cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng và là chồng của Nguyễn Thị Minh Khai, bọn trùm thực dân Pháp ở Nam Kỳ đã ra lệnh cho bọn chúa đảo phải tìm mọi cách hãm hại. Những đòn thù tàn ác, dã man đã làm Lê Hồng Phong kiệt sức dần và mất ngày 5/9/1942 khi vừa tròn 40 tuổi. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Lê Hồng Phong còn nói to lời trăng trối cho các bạn tù ở các phòng bên: "Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin ở thắng lợi vẻ vang của cách mạng".
40 tuổi đời, 20 năm hoạt động cách mạng liên tục, oanh liệt và đầy nhiệt huyết, đồng chí Lê Hồng Phong đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết về đồng chí Lê Hồng Phong cùng với các đồng chí là thế hệ cách mạng đầu tiên của Đảng là những người “... đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên trước hết… Các đồng chí ấy đã vui vẻ hy sinh hết thảy, hy sinh cả tính mệnh mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc. Các đồng chí ấy đã đem xương máu của mình vun tưới cho cây cách mạng, cho nền cây cách mạng khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay” (Hồ Chí Minh Toàn tập, t.6, NXBCTQG.H.2002. tr. 159-160).
Tại Lễ kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Lê Hồng Phong, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Cuộc đời của đồng chí Lê Hồng Phong trong như giọt sương mai, đẹp như ánh dương buổi sớm. Tấm gương chiến đấu kiên cường và sự hy sinh oanh liệt của đồng chí Lê Hồng Phong vì nền độc lập dân tộc, vì lý tưởng cộng sản sẽ sống mãi trong trái tim các thế hệ người Việt Nam chúng ta”.
Noi gương đồng chí Lê Hồng Phong, chúng ta tiếp tục thực hiện tốt việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), tích cực đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tệ nạn quan liêu, tham nhũng và mọi biểu hiện tiêu cực khác; xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân; thi đua lập thành tích sôi nổi chào mừng đại hội Đảng bộ các cấp hướng tới Đại hội lần thứ XII của Đảng, từng bước xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nguyễn Văn Thanh