Chất lượng học tập của học sinh miền núi phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau. Một trong số đó là mức độ hiểu và sử dụng tiếng Việt. So với học sinh miền xuôi, học sinh miền núi gặp khó khăn hơn trong việc tiếp cận và sử dụng thành thạo tiếng Việt, bởi tiếng Việt không phải là tiếng mẹ đẻ. Trong khi đó, tiếng Việt lại là phương tiện tối quan trọng để giao tiếp và chiếm lĩnh tri thức.
Để nắm bắt được kiến thức do giáo viên truyền thụ, nhất là đối với những học sinh ở cấp tiểu học, một học sinh dân tộc thiểu số không chỉ cần nói rõ tiếng mẹ đẻ mà nhất thiết phải biết nói và sử dụng tiếng Việt thành thạo, bởi học sinh sẽ phải tiếp nhận một chương trình học mang tính quốc gia. Tức chương trình chung áp dụng cho mọi học sinh trên toàn quốc, không phân biệt vùng, miền.
Có một thực tế đang diễn ra đối với học sinh vùng dân tộc thiểu số là số học sinh chưa được tiếp xúc với tiếng Việt trong các lớp mầm non, mẫu giáo chiếm tỉ lệ khá cao, tập trung ở các xã, bản vùng sâu, vùng xa, nơi không có điều kiện thành lập các trường mầm non. Hoặc nếu có thì chỉ mới dừng lại ở việc trông nom mà chưa chú trọng nhiều đến việc cho trẻ có những tiếp xúc ban đầu với tiếng Việt.
Đây là một thiệt thòi lớn của học sinh miền núi so với học sinh vùng đồng bằng, thành phố. Khi vào học lớp 1, do không nói được tiếng phổ thông, nhiều học sinh tỏ ra e dè, nhút nhát, thiếu tự tin. Trong khi đó, đa số giáo viên công tác ở các trường miền núi, nhất là đối với những giáo viên trẻ mới ra trường lại không biết hoặc biết rất ít tiếng dân tộc.
Tình trạng bất đồng ngôn ngữ giữa người học và người dạy, giáo viên nói học sinh không hiểu diễn ra khá phổ biến. Học sinh không sử dụng thành thạo tiếng Việt tất yếu sẽ khó nắm được kiến thức từ chương trình học. Chất lượng giáo dục đại trà vì vậy mà bị ảnh hưởng.
Ảnh minh họa
Phần lớn học sinh lưu ban bỏ học trong thời gian qua tập trung chủ yếu ở khu vực miền núi và đều do học lực xếp loại yếu kém. Việc học sinh sử dụng không thành thạo tiếng Việt - phương tiện để chiếm lĩnh kiến thức là một tác nhân quan trọng dẫn đến thực trạng đáng buồn này.
Nguyên nhân dẫn đến việc học sinh vùng dân tộc thiểu số gặp khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng thành thạo tiếng Việt trước hết là bởi nhận thức chưa đầy đủ tầm quan trọng của vấn đề nên việc dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số còn bị xem nhẹ.
Chất lượng giáo viên ngành học mầm non vùng sâu, vùng xa còn nhiều bất cập. Trong khi rất ít giáo viên tiểu học và THCS biết tiếng dân tộc thiểu số, bởi phần lớn trong số họ đều từ những nơi khác tới. Số giáo viên này cũng chưa từng được tiếp cận với chương trình đào tạo liên quan đến ngôn ngữ dân tộc thiểu số khi còn ngồi trên ghế giảng đường.
Để việc nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số đáp ứng được yêu cầu đặt ra, Bộ GD&ĐT cần sớm xây dựng một hệ thống giải pháp quyết liệt, đồng bộ. Theo đó, phương án giãn chương trình lớp 1 cho học sinh dân tộc thiểu số chưa biết tiếng Việt từ 35 tuần thành 50 hoặc 70 tuần mà Vụ Giáo dục Mầm non đã đưa ra thời gian qua là giải pháp hữu hiệu.
Mỗi địa phương cần căn cứ vào điều kiện, tình hình của địa phương mà lựa chọn thời lượng áp dụng cho phù hợp. Các trường mầm non, mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số cần được hỗ trợ đầy đủ tài liệu “Hướng dẫn dạy nói tiếng Việt” cho trẻ trước khi vào lớp 1. Tuy nhiên, việc ngành giáo dục cung cấp đầy đủ các tài liệu dạy và học tiếng Việt chưa phải là đủ. Điều quan trọng nhất là giáo viên phải biết được tiếng dân tộc.
Do đó, cần có những chương trình tập huấn về tiếng dân tộc thiểu số cho đội ngũ giáo viên công tác ở dịa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đã đến lúc phải có những nhìn nhận xác đáng về tầm quan trọng của việc học sinh dân tộc thiểu số hiểu và sử dụng thành thạo tiếng Việt. Từ đó, có những bước đi mang tính đột phá cải thiện tình trạng hạn chế trong sử dụng tiếng Việt ở học sinh vùng dân tộc thiểu số. Góp phần thu hẹp khoảng cách giáo dục giữa các vùng, miền.
Bùi Minh Tuấn
.