Mang trong mình căn bệnh thế kỷ HIV, nhưng chị Tô Thị Tuyết, hiện là giáo viên dạy ở Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bắc Giang, làm thêm tại phòng khám của Trung tâm phòng chống HIV/AIDS vẫn rất lạc quan. Trải qua thời gian dài sống trong nỗi đau đớn của sự kỳ thị, chị đã biết cách sống chung với bệnh tật, cố gắng quên đi những ngày cũ, mở cuộc đời mình sang những ngày mới có ý nghĩa hơn.
Tại họa chẳng biết từ đâu
Nếu ai gặp chị lần đầu thì không thể nghĩ rằng chị bị nhiễm HIV. Bởi chị có vẻ đẹp đằm thắm, mặn mà, ăn mặc giản dị nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp của một người phụ nữ trẻ trung. Thế nhưng, để có được hình dáng ấy, những nụ cười ấy là cả một sự đấu tranh khủng khiếp để vượt qua số phận. Ngược về quá khứ, năm 2007, chị đang là giáo viên trường mầm non Hoa Sen (TP Bắc Giang) nghỉ để sinh đứa con thứ hai thì trong lần xét nghiệm trước sinh, chị phải nhận tin sét đánh là dương tính với vi rút HIV. Đất dưới chân như sụt lở, chị không tin vào tai mình và phải hỏi đi hỏi lại. Bác sĩ nói chắc như đinh đóng cột rằng, chị đã nhiễm “H”. “Tôi đã không tin lời bác sĩ. Tôi phải hỏi lại, bác sĩ quả quyết. Tôi xin xét nghiệm lại. Tôi đã hy vọng bác sĩ nhầm, nhưng không...”, Tuyết bùi ngùi nhớ lại.
Chị đã bị sốc nặng, tưởng như chìm trong đau khổ, tuyệt vọng mà không thể gượng dậy nổi. Khóc cạn nước mắt những đêm dài buồn, chị lục vấn xem mình đã làm gì để nhiễm “bệnh thế kỷ”. Xét đi xét lại thì chính chị và chồng đều là người thủy chung, không thể có chuyện bồ bịch để trở thành nguy cơ nhiễm bệnh. Tuyết cho rằng, có thể mình đã nhiễm trong lần phải bỏ thai lưu, hoặc những lần dạy học và tiếp xúc với các em nhỏ mà bố mẹ chúng nhiễm HIV.
Chị đã đau đớn, đến khi chồng và gia đình chồng, những người thân khác trong gia đình biết sự thật, thì nỗi sợ hãi của họ càng khiến chị kiệt cùng nỗi tuyệt vọng. Phải làm sao bây giờ? Chẳng lẽ tìm được chết? Tuyết bộc bạch: “Nhưng đó vẫn chưa phải là tất cả của nỗi đau. Tôi rơi vào tình thế khổ sở hơn nhiều. Ngay cả chồng tôi lúc đó cũng kỳ thị hai đứa con. Sau này, làm các xét nghiệm, biết hai con không hề nhiễm “H”, chồng tôi mới dần vơi kỳ thị các con đấy”.
Giống như bao người tuyệt vọng vì căn bệnh này, Tuyết ngại chẳng muốn gặp người ngoài, và càng hoang mang không biết người ta nghĩ gì về mình. Một thời gian dài chị dường như chỉ ở nhà và nhờ hàng xóm đi chợ, nếu cần mua thứ gì cho sinh hoạt gia đình. Chị rơi vào trầm cảm, lúc nào cũng dằn vặt bản thân. Tương lai đóng sầm trước mắt. Ngay cả công việc cũng mất, các học sinh đáng yêu cũng phải chia xa.
Chị nói: “Tôi có một người chồng điển trai, bản thân luôn là một người sống tốt và làm một công việc cũng rất tốt. Tôi hoàn toàn có thể sống cuộc sống hạnh phúc, có tương lai rộng mở nếu như điều đau khổ đó không xảy đến. Khi biết tôi nhiễm HIV, chồng tôi không bị nên nhiều người không khỏi bất ngờ bởi tôi thì làm gì mà có thể nhiễm được cái thứ chết người ấy. Ấy vậy mà... Tôi trở lại trường sau thời gian nghỉ thai sản, thì cũng là lúc Ban giám hiệu vận động nghỉ việc. Họ đưa ra tên các học sinh xin chuyển trường, và tôi phải nghỉ việc”.
Tuyết tìm cách quẫy đạp trong khó khăn. Chị ước muốn có việc làm để nuôi con và chi tiêu cho cuộc sống, nhưng lúc đó ngoài dạy học ra chị chẳng biết làm gì khác. Chị đi xin việc nhiều nơi nhưng không đâu nhận. Chị liền đi học may rồi nhận hàng về may thuê để có thể kiếm chút tiền nuôi mình, nuôi con. Và cuộc đời Tuyết, dù đau đớn tột cùng thì người ta vẫn thấy có một điều may mắn là chồng và hai đứa con của chị không hề nhiễm “H”.
Liều thuốc tốt
Khổ sở một thời gian dài, nên khi được tham gia vào một dự án của Mỹ về chống kỳ thị với người nhiễm “H”, được hoạt động trong Trung tâm phòng chống HIV/ AIDS Bắc Giang, chị Tô Thị Tuyết như người chết đuối vớ được cọc. Được động viên, chị tích cực hoạt động hơn, trở thành một đồng đẳng viên năng nổ của CLB “Tình thương và hy vọng”. Tiếp tục, chị được bầu làm trưởng nhóm tự lực “Vì ngày mai Tươi sáng”, tích cực tham gia vào các hoạt động phòng chống HIV/AIDS của Bắc Giang.
Tiếp nối những thuận lợi cho niềm hy vọng sống và làm việc của Tuyết, đó là cuộc thi “Dấu cộng duyên dáng 2010”. Đây là chương trình mà chị coi như một liều thuốc đặc hiệu cho tinh thần của mình, để có thể giũ bỏ được mọi phiền muộn, sống tích cực, nghĩ tích cực, làm một người có ích.
Chị bày tỏ: “Ở cuộc thi đó, tôi đạt giải Ba, và đã tạo được bước ngoặt trong cuộc đời. Đó là cuộc thi dành cho những phụ nữ nhiễm HIV. Lúc đó tôi nghĩ chỉ đăng ký thi để giao lưu thôi, chứ chẳng nghĩ sẽ xuất hiện trên ti vi, trên mạng internet đâu. Lúc đó đi thi, gia đình cũng còn phản đối tôi mà bởi mọi người nghĩ rằng, đã mang bệnh rồi, chẳng có gì hay ho nữa mà thi với thố. Bản thân tôi cũng khá rụt rè, mặc cảm. Sau khi được một số bè bạn động viên, tôi cũng nhận ra mình chẳng có tội gì cả. Và những người như tôi cần phải làm cái gì đó để giảm kỳ thị, phải nắm lấy cơ hội đó để thể hiện nỗi lòng của mình.”
Chị đã mang đến cuộc thi thông điệp hình ảnh sống động về những phụ nữ nhiễm HIV bằng xương bằng thịt vẫn đang sống khỏe mạnh, xinh đẹp. Suốt những ngày tháng hoạt động xã hội, chị đã gặp rất nhiều hoàn cảnh đáng thương, những người nhiễm “H” sống cô đơn trong chính gia đình, cộng đồng mình. Số tiền 8 triệu đồng có được, ngoài trang trải cho hai con, chị cũng dành một phần giúp đỡ trẻ em nghèo. Cái được nhất của chị là đã giúp nhiều người biết chị, biết nghị lực và cách chị đấu tranh với bệnh tật, với sự kỳ thị thế nào và tuyên truyền chống kỳ thị người nhiễm “H” ra sao. Càng nhiều người biết thì càng nhiều người thông cảm, hiểu cho chị, cho những người bệnh như thế. Ngoài ra, chị còn kêu gọi tạo điều kiện việc làm cho người nhiễm “H”, bởi đó là cách tốt nhất giúp họ sống tốt trong cộng đồng.
Tiếp sức cho nhiều hoàn cảnh
Từ ngày bị bệnh đến nay, chị vẫn khỏe như người bình thường và chưa phải dùng thuốc để điều trị. Điều đó với chị cũng là một may mắn lạ lùng. Trước đây chị khóc nhiều lắm, giờ thì chẳng điều gì có thể làm chị khóc. Chị đã vượt qua nghịch cảnh, qua cái ngưỡng để biết sống thế nào cho tốt với mình, con cái và người thân cũng như những phận người kém may mắn.
Để có được điều đó, Tuyết bảo phải tạo cho mình sự vững vàng, có niềm tin để sức khỏe cứ ở bên mình mãi. Hơn ba năm nay, vào buổi sáng Tuyết dạy học cho các em nhỏ nhiễm “H” ở Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bắc Giang, chiều lại làm ở phòng khám của Trung tâm phòng chống HIV/AIDS và nhiều công việc xã hội khác.
Chương trình dạy học, lãnh đạo trung tâm cho chị được hoàn toàn tự quyết, cốt sao tốt cho các em chịu thiệt thòi. Bởi 8 em tại đây ngoài nhiễm bệnh, phải điều trị thường xuyên thì đều đã mất cả cha lẫn mẹ. Những tâm hồn non nớt, các em lúc này chẳng khác chi ngọn đèn trước gió, nhưng các em vui vì có một ngọn đèn lớn hơn soi sáng động viên. Tuyết thấy mình còn may mắn hơn các em, hơn nhiều người khác. Bởi ít ra, ông trời còn ban cho chị niềm vui khác, một sức chiến đấu dẻo dai.
Chị nói, lớp có 11 em nhưng vài em đã mất đi vì không đủ sức chống lại bệnh tật. Và trong lớp học có 8 đứa trẻ nhiễm “H” chị thương nhất em Hoàng Mai Linh nay không còn bố mẹ, ông bà cũng chẳng có trách nhiệm gì. Em gầy gò, xiêu vẹo như chính con chữ của em viết. Hai năm nay em còn đau khớp chân, đi lại khó khăn do tác dụng phụ của thuốc điều trị. “Em Linh cô đơn và thân phận, nhưng cũng rất kiên cường, và đến hôm nay em ấy còn sống được cũng là một kỳ tích.”, Tuyết tâm sự.
Lúc này, điều mong mỏi lớn nhất của Tuyết là công việc ổn định, có thể nuôi được bản thân và chăm sóc cho hai con. Đồng thời có sức khỏe để truyền cảm hứng sống tích cực cho nhiều người không may mắn khác.
.