Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương, đại biểu tham dự Đại hội XIII của Đảng, cũng là thành viên Tổ biên tập của Tiểu ban Kinh tế - xã hội Đại hội XIII nhấn mạnh điều này khi trao đổi với Cổng Thông tin điện tử Chính phủ.
Tiểu ban Kinh tế - Xã hội do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc là Trưởng Tiểu ban, có nhiệm vụ chủ trì các dự thảo báo cáo Chiến lược kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 và Phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2021-2025 trình Đại hội XIII của Đảng.
Dự thảo văn kiện Đại hội XIII đặt mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao. |
5 năm qua là thời gian không dài so với 35 năm đổi mới và rất ngắn so với hơn 90 năm lịch sử của Đảng kể từ ngày thành lập. Ông đánh giá như thế nào về những diễn biến trong 5 năm vừa qua và những kết quả đã đạt được?
Thứ trưởng Trần Quốc Phương: Như chúng ta đều biết, 5 năm qua là giai đoạn rất đặc biệt với cả thế giới và Việt Nam. Tôi chỉ xin nhấn mạnh tới 3 trong số nhiều đặc điểm lớn và rất mới của giai đoạn này.
Thứ nhất, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra gay gắt so với các giai đoạn trước. Thứ hai, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tiếp tục diễn ra mạnh mẽ hơn, mở ra những không gian phát triển mới rộng lớn và cả những thách thức mới cho loài người, mỗi quốc gia, các cộng đồng và mỗi cá nhân. Cuối cùng, đại dịch COVID-19 bùng nổ theo cách thức khó ai lường trước được và gây ra những hậu quả, hệ quả chưa từng có.
Ba đặc điểm nói trên, cộng với nhiều vấn đề khác như chủ nghĩa dân tộc cực đoan, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác, nhất là an ninh mạng…, ngày càng tác động mạnh, nhiều mặt tới sự phát triển ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và đất nước ta. Có một thuật ngữ đã xuất hiện khá lâu là “thế giới VUCA” với các yếu tố: Biến động (Volatility), Bất định (Uncertainty), Phức tạp (Complexity) và Mơ hồ (Ambiguity), đại dịch càng khiến những yếu tố này rõ nét thêm.
Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam đã đạt được những kết quả rất quan trọng mà thời gian qua, dư luận trong nước và quốc tế đã nhắc tới nhiều lần, các báo cáo tổng kết cũng đã nêu rất rõ. Những kết quả đó có được vừa nhờ kế thừa những thành tựu của các giai đoạn trước, vừa nhờ sự lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo, điều hành rất đồng bộ, nhạy bén, tích cực, năng động, sáng tạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, sự đoàn kết, đồng lòng ủng hộ của cả hệ thống chính trị và nhân dân cả nước, nhờ những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc được phát huy đúng thời điểm.
Cũng trong suốt 5 năm qua, nhất là trong năm 2020, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo điều hành hết sức linh hoạt, quyết liệt với các giải pháp phù hợp, kịp thời, nắm bắt được thời cơ, xử lý được các thách thức, các vấn đề nảy sinh. Tôi chỉ xin nhắc tới một ví dụ: Ngay khi nền kinh tế còn rất khó khăn do đại dịch, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ ra “cỗ xe tam mã” cần được tiếp tục thúc đẩy cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam, gồm đầu tư công, xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Thực tế diễn biến nền kinh tế đã chứng tỏ điều này là đúng.
Cụ thể, Chính phủ đã đẩy mạnh đầu tư công để cân bằng lại nguồn lực bị ảnh hưởng bởi COVID-19. Tiêu dùng nội địa tăng thấp nhưng vẫn là yếu tố hỗ trợ tăng trưởng kinh tế do thói quen tiết kiệm và cơ cấu tiêu dùng của người Việt Nam, trong khi phương thức mua sắm trực tuyến đã phát triển mạnh mẽ, bổ sung cho phương thức tiêu dùng truyền thống. Xuất khẩu duy trì tăng trưởng dương trong bối cảnh thương mại toàn cầu suy giảm mạnh.
Có thể nói, trước tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, nhất là trong đại dịch COVID-19, chúng ta đã chủ động xử lý thành công các tình huống, không để bị động, bất ngờ. Nếu so với thế giới, Việt Nam là một điểm sáng trong đại dịch, cả về khống chế dịch bệnh, cả về phát triển kinh tế - xã hội. Còn so với các giai đoạn trước trước đây, các nền tảng của chúng ta đã vững vàng hơn nhiều, khả năng ứng phó và xử lý khủng hoảng, chống chịu và vượt qua các cú sốc của Việt Nam đã khác trước. Điều này cũng khẳng định tính ưu việt của chế độ chính trị, của thể chế kinh tế - xã hội Việt Nam.
Những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội XII có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ tạo được dấu ấn nổi bật, mà còn góp phần củng cố niềm tin, tạo ra động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ, thuận lợi, đưa đất nước bước vào một thời kỳ phát triển mới.
Trong khủng hoảng toàn cầu, trong khi hầu hết các nền kinh tế đang phải vật lộn để tồn tại và phục hồi, bên cạnh đó, vẫn chưa có một bằng chứng chắc chắn nào cho thấy đại dịch sẽ sớm kết thúc, thì nền kinh tế - xã hội của Việt Nam về cơ bản vẫn ổn định và chúng ta có cơ sở để tin rằng, Việt Nam sẽ là một trong nước phục hồi sớm nhất tốc độ phát triển như trước khi đại dịch nổ ra. Thậm chí, nếu có thể tận dụng tốt các cơ hội, chúng ta có thể kỳ vọng vào tốc độ tăng trưởng cao hơn nữa.
Lần đầu tiên, dự thảo văn kiện Đại hội Đảng đề cập tới “hai mục tiêu 100 năm” và cũng lần đầu tiên, dự thảo văn kiện Đại hội đề cập tới “khát vọng phát triển”. Tại sao những vấn đề này được đề cập trong thời điểm này, thưa ông?
Thứ trưởng Trần Quốc Phương: Như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế, song đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Sau 35 năm đổi mới và đặc biệt là sau 5 năm trong nhiệm kỳ vừa qua, với những bài học và thành tựu đạt được, tôi nghĩ, đây là thời điểm thích hợp nhất để đề cập tới hai mục tiêu 100 năm, khi niềm tin và khát vọng vươn lên của cả dân tộc đang dâng cao. Để thực hiện những mục tiêu này, cần khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa, biến khát vọng và niềm tin đó thành lực lượng vật chất, thành sức mạnh phát triển của cả dân tộc.
Văn kiện Đại hội xác định động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước trong giai đoạn tới là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất.
Các văn kiện trình Đại hội XIII không chỉ xác định mục tiêu phát triển đất nước trong 5 đến 10 năm tới mà còn đưa ra tầm nhìn, định hướng đến năm 2045 gắn với hai cột mốc quan trọng là kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng vào năm 2030 và 100 thành lập nước vào năm 2045.
Cụ thể, đến năm 2025, là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Cũng lần đầu tiên trong chủ đề của Đại hội và trong các dự thảo báo cáo chính trị đề cập đến "khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc", trong đó đặc biệt nhấn mạnh yếu tố "hạnh phúc" của nhân dân. Đây được xem là một điểm nhấn quan trọng và nhân dân cũng đang rất quan tâm, rất kỳ vọng vào những quyết sách lớn lao của Đại hội.
Đất nước ta đang đứng trước thời cơ mới chưa từng có và lịch sử cũng đã cho thấy, khi nào cả dân tộc ta đoàn kết, cùng chung một khát vọng, một niềm tin, thì nhất định sẽ lập nên những kỳ tích. Đây là thời điểm để chúng ta dồn toàn lực vào “cuộc đua nước rút” tới các cột mốc năm 2030 và năm 2045, hiện thực hóa mục tiêu “bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra từ những ngày lập quốc.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương. |
Tại Đại hội XI, Đảng ta đã xác định 3 khâu đột phá chiến lược, dự thảo văn kiện Đại hội lần này đã tiếp tục kế thừa và phát triển các nội dung về 3 đột phá chiến lược này như thế nào, thưa Thứ trưởng?
Thứ trưởng Trần Quốc Phương: Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp chủ yếu nêu trên, chúng ta cần tập trung đầu tư nguồn lực và đặc biệt chú trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, tạo sự chuyển biến về chất trong việc thực hiện ba đột phá chiến lược do Đại hội lần thứ XI, XII đã đề ra. Dự thảo văn kiện Đại hội lần này tiếp tục bổ sung, cụ thể hoá cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới.
Cụ thể, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách nhằm tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những biện pháp hữu hiệu.
Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội, về môi trường và quốc phòng, an ninh, ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.
Có thể nói gọn lại, đó là xây dựng thể chế thúc đẩy đổi mới sáng tạo; phát triển nguồn nhân lực có khát vọng, có khả năng đổi mới sáng tạo; và tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia.
Dự thảo văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh yêu cầu thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ông có thể chia sẻ cụ thể hơn về nội dung này?
Thứ trưởng Trần Quốc Phương: Đổi mới sáng tạo, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, chuyển đổi số… là những “từ khóa” rất quan trọng trong văn kiện Đại hội lần này. Trên cơ sở bám sát thực tiễn, xu hướng phát triển của đất nước và thế giới, Báo cáo chính trị đề ra và các báo cáo chuyên đề đã cụ thể hoá 12 định hướng chiến lược phát triển đất nước trong thời kỳ 2021 - 2030. Các định hướng lớn bao quát những vấn đề phát triển quan trọng của đất nước trong giai đoạn 10 năm tới, trong đó có nhiều vấn đề mới, nổi bật. Theo đó, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 là một trọng tâm.
Để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến việc tận dụng có hiệu quả các cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đem lại. Những cụm từ như "đổi mới sáng tạo", "chuyển đổi số", "kinh tế số", "xã hội số"… đã xuất hiện ngày một nhiều trên các diễn đàn trong nước, quốc tế và trong thực tế, đã và đang tác động tới mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam. Mấy hôm nay, báo chí đã đưa tin về hai cá nhân đóng thuế thu nhập cá nhân nhiều nhất ở Hà Nội năm 2020, cả hai đều thuộc thế hệ 9X với thu nhập khoảng 300 tỷ đồng mỗi năm, nộp thuế hàng chục tỷ đồng và đáng chú ý nhất, họ đều là những người viết phần mềm ứng dụng.
Năm 2020 được Chính phủ xác định và đã diễn ra như năm chuyển đổi số của Việt Nam, với một tốc độ nhanh chưa từng thấy theo quyết tâm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và dưới tác động của đại dịch.
Trong khó khăn do dịch bệnh COVID-19, chúng ta đã nhìn thấy cơ hội mang lại từ làn sóng cách mạng công nghiệp lần thứ 4, chuyển đổi số là rất lớn. Vì vậy, nếu như tại các văn kiện Đại hội XI, XII, khái niệm kinh tế số chưa được nhắc đến, thì trong văn kiện trình Đại hội XIII, đổi mới sáng tạo đi cùng với chuyển đổi số "phát triển kinh tế số" đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đây được coi là chìa khóa để tận dụng được các cơ hội trong những năm tới.
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 52 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, mục tiêu là đến năm 2025, kinh tế số Việt Nam sẽ chiếm khoảng 1/5 GDP và hỗ trợ năng suất lao động tăng bình quân hơn 7%/năm, tới năm 2030, kinh tế số chiếm trên 30% GDP.
Chuyển đổi số quốc gia không chỉ trong phạm vi các cơ quan của Nhà nước, Chính phủ, mà còn chuyển đổi số trên diện rộng, đặc biệt với các doanh nghiệp. Đó cũng là điều kiện tiên quyết để chúng ta có sức bật tăng trưởng trong giai đoạn tới. Nếu như chúng ta không chuyển đổi số kịp thời thì đây sẽ là yếu tố dẫn tới nguy cơ nền kinh tế bị tụt hậu, bản thân các doanh nghiệp cũng bị tụt hậu so với các doanh nghiệp trên thế giới.
Văn kiện Đại hội cũng khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn, đây là yêu cầu tất yếu nhằm khắc phục hạn chế của mô hình tăng trưởng truyền thống.
Nhìn tổng thể, theo ông, đâu là cơ hội và đâu là thách thức cho kinh tế Việt Nam trong trung và dài hạn?
Thứ trưởng Trần Quốc Phương: Thành công trong việc ngăn chặn sự lây lan của COVID-19 và việc giữ được ổn định kinh tế vĩ mô là yếu tố nền tảng cho quá trình phục hồi và phát triển kinh tế trong năm 2021 và trung hạn 2021-2025. Trong một thế giới đang biến động và bất định, một lần nữa chúng ta thấy được giá trị của sự ổn định, sự an toàn và đây là một lợi thế của Việt Nam.
COVID-19 cũng hình thành hoặc đẩy nhanh nhiều xu hướng mới, định hình lại các dòng tài chính quốc tế, thương mại và đầu tư, nhất là chuyển dịch chuỗi cung ứng, tạo ra nhiều thách thức và cả cơ hội phục hồi kinh tế trong dài hạn. Việc tận dụng được những cơ hội mới để phục hồi kinh tế năm 2021 và bứt phá trong giai đoạn 2021-2025 có ý nghĩa quan trọng nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra trong Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2021-2025.
Việt Nam đang đứng trước cơ hội tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; khả năng tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu với các FTA thế hệ mới và làn sóng FDI mới khi Việt Nam đang cho thấy “sức hấp dẫn” đáng kể đối với các nhà đầu tư quốc tế dựa trên khả năng chống chịu của nền kinh tế trong đại dịch, triển vọng phục hồi sau đại dịch và các cơ hội từ các FTA. Và như tôi đã nói, lĩnh vực kinh doanh dựa trên nền tảng số có điều kiện để phát triển nhanh. Các nhóm hàng hóa, dịch vụ được giao dịch qua mạng và các nền tảng số có sự tăng trưởng mạnh trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Riêng dịch vụ tài chính số, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, Việt Nam hiện có mức tăng trưởng ấn tượng nhất trong khu vực.
Về thách thức, vẫn còn đó nhiều vấn đề về cơ cấu và chất lượng tăng trưởng, các điểm nghẽn cần tập trung tháo gỡ một cách quyết liệt. Yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng trở nên cấp bách hơn. Ngoài ra, cũng cần lưu ý tới một yếu tố mà nhiều chuyên gia kinh tế thế giới đã cảnh báo các nền kinh tế trong và sau đại dịch, đó là sức ép bất ổn vĩ mô do rủi ro chính sách nới lỏng tiền tệ, tài khóa để ứng phó suy giảm kinh tế, có thể nói là “siêu nới lỏng”. Hệ quả của các gói kích thích với khối lượng tiền lớn tung vào thị trường trong khi cơ hội kinh doanh chưa phục hồi có thể làm tăng nguy cơ bất ổn tài chính, vĩ mô toàn cầu. Cùng với đó là những diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID, căng thẳng thương mại và biến đổi khí hậu…
Trong giai đoạn mới, hàng loạt câu hỏi đặt ra cần trả lời. Liệu thế giới có thể trở lại trạng thái bình thường, dù là “bình thường mới” hay không, hay chỉ tạm thời ổn định để rồi các yếu tố bất định khác lại xuất hiện? Liệu COVID-19 chỉ là một sự đứt đoạn trong tăng trưởng hay đã và đang bào mòn các động lực tăng trưởng của giai đoạn tới? Những động lực chính và những yếu tố mới trong nước và quốc tế đối với quá trình tăng trưởng và phát triển của Việt Nam là gì? Tôi nghĩ đây cũng là một số trong những vấn đề trọng tâm được đưa ra phân tích kỹ lưỡng tại các phiên thảo luận của Đại hội XIII với tinh thần, trách nhiệm cao nhất của các đại biểu.
Xin trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!