Thứ Hai, 23/12/2019, 08:12 [GMT+7]

Giải pháp đồng bộ để doanh nghiệp Việt để tham gia hiệu quả mạng lưới toàn cầu

Sau 25 năm kể từ khi gia nhập ASEAN, hơn 10 năm gia nhập WTO, tới nay Việt Nam đã trở thành nền kinh tế có quy mô xuất khẩu đứng thứ 22 trên thế thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, cần có các giải pháp đồng bộ để doanh nghiệp Việt tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
 
Bộ Công thương sẽ có báo cáo Phát triển thị trường cho doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập quốc tế tại Hội nghị Thủ tướng đối thoại với doanh nghiệp diễn ra vào ngày 23/12. Theo đó, sau 25 năm kể từ khi gia nhập ASEAN, hơn 10 năm gia nhập WTO, tới nay Việt Nam đã trở thành nền kinh tế có quy mô xuất khẩu đứng thứ 22 trên thế thế giới.
 
Xuất khẩu của Việt Nam đã gia tăng nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng cao trên 15% trong giai đoạn 2011-2019 và chính thức cán mốc kim ngạch 500 tỷ USD vào giữa tháng 12 năm nay. Thành tích này càng có ý nghĩa trong bối cảnh kinh tế, thương mại thế giới đang sụt giảm do tác động của các xung đột thương mại và cạnh tranh chiến lược giữa các nền kinh tế lớn trên thế giới. Thành tích này đã đưa Việt Nam tiếp tục duy trì thành tích xuất siêu năm thứ 4 liên tiếp trong năm nay (xuất siêu khoảng 9,9 tỷ USD).
 
Nhìn lại quá trình hội nhập và phát triển, chúng ta có thể nhận thấy rằng, doanh nghiệp Việt Nam đã và đang tận dụng tốt các cơ hội có được từ các Hiệp định thương mại tự do (FTAs) và các khung khổ hợp tác khu vực và đa phương khác.
 
Thời gian tới, trong bối cảnh chúng ta tiếp tục thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế, đặc biệt là việc triển khai thực hiện cam kết hội nhập ở các FTA thế hệ mới quan trọng như  Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và  Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam -EU (EVFTA) thì Bộ Công Thương cho rằng có một số vấn đề cần tiếp tục tập trung xử lý để hỗ trợ hiệu quả công tác phát triển thị trường bền vững cho các doanh nghiệp.
 
Trước tiên, cần xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả Kế hoạch hành động thực hiện các FTAs, đặc biệt là CPTPP và EVFTA nhằm hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận thị trường.Tiếp tục triển khai đồng bộ, hiệu quả các hoạt động truyên truyền phổ biến thông tin tới cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng dưới nhiều hình thức khác nhau.
 
Nội dung thông tin tuyên truyền cần sâu hơn và thực chất hơn nữa, không chỉ tập trung vào các cam kết trong các lĩnh vực truyền thống như cắt giảm thuế quan, quy tắc xuất xứ, dịch vụ và đầu tư, các rào cảo phức tạp đối với các doanh nghiệp khi muốn tiếp cận thị trường của nhiều nước….
 
Cần tiếp tục rà soát và sửa đổi hệ thống pháp luật để thực thi cam kết trong các FTA, đặc biệt là các FTA vừa có hiệu lực thực thi như CPTPP, thực hiện đồng bộ hoá khuôn khổ pháp lý theo triết lý “mở”…
 
Cần tiếp tục đơn giản hóa, hiện đại hóa hoạt động cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O): tổ chức thực hiện và theo dõi triển khai việc phân luồng doanh nghiệp trong quy trình cấp C/O ưu đãi; đẩy mạnh cấp C/O qua Internet.
 
Thứ hai là cần xử lý tốt các vấn đề về phòng vệ thương mại, các vấn đề về hàng rào kỹ thuật trong hoạt động thương mại, đặc biệt là các quy định và tiêu chuẩn về môi trường, biến đổi khí hậu, lao động và xã hội đối với hàng xuất khẩu của ta. Tăng cường các biện pháp chống gian lận xuất xứ để bảo vệ các ngành hàng, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam trước rủi ro của những vụ kiện chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại.
 
Cho đến nay, hàng xuất khẩu của ta đã phải đối mặt với hơn 150 vụ việc phòng vệ thương mại do 19 quốc gia và vùng lãnh thổ khởi xướng điều tra với sự tập trung vào các vấn đề về chống bán phá giá, tự vệ, chống trợ cấp... Đây không phải là vấn đề mới, nhưng là vấn đề khó và đang trở thành những rào cản xuất khẩu nhưng ta đã có sự chủ động, tích cực phối hợp với các Hiệp hội ngành nghề và doanh nghiệp trong hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với các vấn đề này.
 
Thời gian qua, Bộ Công Thương cũng đã phối hợp với các Bộ, ngành đấu tranh trên phương diện pháp lý bằng cách kiến nghị Chính phủ đưa vụ việc ra Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO khi các biện pháp các nước áp dụng có dấu hiệu vi phạm quy định WTO.
 
Trong thời gian tới, để đối phó hiệu quả hơn đối với các vấn đề này, cần tiếp tục tập trung vào một số hoạt động như: Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, cảnh báo đối với các biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) áp dụng lên hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, kể cả các vụ điều tra chống lẩn tránh biện pháp PVTM…; xây dựng và vận hành hiệu quả Hệ thống cảnh báo sớm về PVTM nhằm hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam trong việc chủ động sử dụng và ứng phó hiệu quả với các biện pháp PVTM để bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của mình; đẩy mạnh phổ biến, hướng dẫn, tư vấn doanh nghiệp cách thức ứng phó với các vụ kiện do nước ngoài khởi xướng.
 
Ngoài ra, cần chủ động phối hợp, kể cả đấu tranh với các cơ quan điều tra nước ngoài ngay từ giai đoạn điều tra ban đầu để bảo vệ lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp Việt Nam, giảm thiểu tác động bất lợi của biện pháp. Đặc biệt, cần tăng cường công tác hậu kiểm tại tổ chức cấp C/O và các doanh nghiệp đề nghị cấp C/O. Chủ động phối hợp với cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu trong trường hợp có yêu cầu xác minh xuất xứ nhằm phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp mượn xuất xứ Việt Nam để tránh việc giả mạo xuất xứ.
 
Thứ ba là cần đổi mới toàn diện công tác xúc tiến thương mại hỗ trợ tiếp cận thị trường ngoài nước, tăng tỷ trọng của các hoạt động có tác dụng lâu dài như đào tạo kỹ năng, giảm tỷ trọng của các hoạt động chỉ có tác dụng nhất thời như hội chợ, triển lãm…
 
Cần đẩy mạnh hoạt động phát triển thương hiệu cho sản phẩm và doanh nghiệp xuất khẩu thông qua chương trình Thương hiệu quốc gia nhằm quảng bá hình ảnh, quảng bá sản phẩm và xây dựng thương hiệu ngành hàng, sản phẩm xuất khẩu tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm và có nhiều tiềm năng…
 
Triển khai Đề án thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài giai đoạn đến năm 2020, Bộ Công Thương tiếp tục chỉ đạo và hướng dẫn các doanh nghiệp phân phối trong nước triển khai các chương trình liên kết ổn định, lâu dài với nông dân để tiêu thụ hàng hóa qua các hệ thống phân phối trong nước cũng như xuất khẩu thông qua các cơ sở phân phối của các doanh nghiệp này ở nước ngoài. Tiếp tục từng bước cải tiến hoạt động theo hướng gắn kết doanh nghiệp Việt kiều ở ngoài nước với doanh nghiệp trong nước, sử dụng mạng lưới kiều bào để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tìm hiểu và mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời thông qua lực lượng này để tuyên truyền về chất lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam, góp phần hỗ trợ thành công tiêu thụ sản phẩm của Việt Nam trong các hệ thống siêu thị tại nước ngoài.
 
Doanh nghiệp Việt Nam phải thay đổi tư duy kinh doanh thích nghi với bối cảnh mới, tích cực tìm hiểu, nắm bắt thông tin và linh hoạt trong việc tiếp cận, tận dụng cơ hội, tìm hiểu thông tin, chuẩn bị cho mình một tâm thế cạnh tranh khu vực và quốc tế, có tư duy sáng tạo, đổi mới và sự nhạy bén trong kinh doanh, có kế hoạch xây dựng năng lực, đặc biệt về thương hiệu hay uy tín và chất lượng để làm ăn quy mô và dài hạn trong tương lai. Song song với đó, việc đầu tư xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao rất quan trọng, là yếu tố không thể thiếu được. Chỉ khi doanh nghiệp đáp ứng được các điều kiện, tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu, đáp ứng các tiêu chí xuất xứ theo cam kết thì những ưu đãi thuế quan mới phát huy được hiệu quả, phát triển thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp mới thực sự bền vững.
.

Nguồn: Chinhphu.vn

.