Ảnh: VGP/Thu Lê |
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) vừa phối hợp với Aus4Refrom tổ chức Hội thảo khoa học “Cải cách độc quyền Nhà nước trong các ngành công nghiệp mạng lưới”.
Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, cải cách độc quyền Nhà nước trong các ngành công nghiệp mạng lưới là vấn đề được đặt ra ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, không chỉ ở Việt Nam. Tuy nhiên, khi nhiều nước đã thành công trong việc giảm tối đa hoặc xóa bỏ độc quyền trong các ngành này thì Việt Nam mới đang “loay hoay” trong giai đoạn chuyển đổi từ độc quyền Nhà nước hoàn toàn sang cạnh tranh một phần.
“Bối cảnh kinh tế, chính trị rất khác so với các nước lý giải tại sao quá trình giảm độc quyền của Việt Nam khó khăn như vậy”, bà Lan nói.
Cụ thể, theo bà Phạm Chi Lan, Việt Nam vẫn đang theo đuổi nền kinh tế thị trường định hướng XNCN, theo đó kinh tế Nhà nước là chủ đạo và DNNN vẫn là bộ phận quan trọng của thành phần kinh tế đó.
Về nguyên tắc, các thành phần kinh tế đều bình đẳng và đã có nhiều chính sách cụ thể để thực thi yêu cầu này, nhưng trên thực tế, trong một số chính sách vẫn có một loạt các điều kiện trói buộc, mang tính ‘đánh đố’ cao, khiến các DN ngoài Nhà nước ‘chùn chân’ và gần như không có cửa tham gia một số lĩnh vực.
Bên cạnh đó, hệ thống quản trị DNNN chưa đủ công khai, minh bạch và thiếu trách nhiệm giải trình dẫn tới các yếu kém của DNNN, nhất là trong các lĩnh vực độc quyền tiếp tục tồn đọng, chậm bị phát hiện.
Ngoài ra, vị chuyên gia cho rằng các DN độc quyền của đã xuất hiện cách đây cả nửa thế kỷ, chứ không chỉ từ thời điểm các tổng công ty Nhà nước được hình thành từ các năm 1994-1995, vì vậy phá vỡ nó càng khó khăn hơn so với các nước khác.
Dẫn ra ví dụ ở cả nhiều lĩnh vực đã được cổ phẩn hóa, tỷ lệ cổ phần nắm giữ của Nhà nước vẫn chiếm tới 50-60%, bà Lan cho rằng một tỷ lệ quá lớn như vậy không thể tạo động lực cho tư nhân, khuyến khích cạnh tranh khi họ chỉ có thể bỏ tiền vào mà không có quyền điều hành.
Còn theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, 4 lĩnh vực độc quyền mạng lưới (điện, viễn thông, đường sắt và hàng không) ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng, giá thành và năng lực cạnh tranh của các DN Việt Nam.
Theo ông Doanh, mặc dù trong Luật Cạnh tranh đã có đề cập nhưng đến nay vẫn chưa có cơ quan đủ thẩm quyền để giám sát độc quyền.
Vị chuyên gia cũng lưu ý, trong 4 ngành kể trên, mức độ độc quyền mạng lưới cũng có sự khác nhau. “Ngành điện có mức độ độc quyền rất cao, trong khi đó đường sắt lại tự độc quyền với mạng lưới của mình nhưng không đủ sức cạnh tranh với các loại hình vận tải khác, cộng thêm với những ‘sai sót’ không đáng có gây nên những tai nạn nghiêm trọng trong thời gian qua khiến thị phần ngành này ngày càng giảm", ông Doanh nhận định.
Bà Phạm chi Lan cho rằng, Việt Nam cần thực hiện theo đúng lộ trình đã cam kết trong các FTA và những cam kết quốc tế khác. “Có không ít các FTA nếu được thực hiện trước sự giám sát quốc tế và sức ép cạnh tranh hiện tại sẽ giúp cho việc thực hiện quy định nội bộ của Việt Nam tốt hơn”.
Đồng thời, ứng dụng tối đa các công nghệ hiện đại vào hệ thống quản trị của các DN và hệ thống quản trị của Nhà nước với các DN mạng lưới để năng cao tính hiệu quả và năng lực canh tranh.
Bà Lan cho rằng trong giai đoạn 2021-2030, phải thay đổi rất căn bản cách xây dựng Tổng sơ đồ điện 8, tận dụng sự tham gia tối đa của các chuyên gia công nghệ, kinh tế, đưa ra bài toán kinh tế sòng phẳng, thực chất hơn, đồng thời khuyến khích các DN tham gia vào lĩnh vực năng lượng tái tạo.
Đồng tình với quan điểm này, chuyên gia Lê Đăng Doanh cho rằng, để giảm mức độ độc quyền “chỉ ứng dụng khoa học công nghệ mới có hi vọng”. Đối với ngành điện, với dự kiến, đến năm 2020, giá điện mặt trời sẽ giảm hẳn và có khả năng canh tranh điện than. Hoặc trong tương lai không xa, có thể có những vệ tinh cung cấp dịch vụ internet cho toàn cầu, lúc đó mức độ độc quyền sẽ giảm đi.
Với ngành hàng không, ông Doanh khuyến nghị cần phân tích sâu cơ chế và hiệu quả tài chính để thấy rõ việc cho phép cạnh tranh đem lại cải thiện rõ rệt như thế nào.
Về việc cổ phần hóa các DNNN, chuyên gia Lê Đăng Doanh cho rằng cần phải thực hiện đến mức độ đủ để có các cổ đông chiến lược, nếu không hoạt động của DN sẽ không có nhiều khác biệt so với trước đây.