Bà là Phạm Thị Hường (SN 1930), ở xã Diễn Thành, huyện Diễn Châu, Nghệ An, vợ liệt sỹ Trần Văn Giảng, nguyên là bộ đội chủ lực của chiến trường Điện Biên Phủ năm xưa.
Không sinh ra cùng làng, nhưng có lẽ anh chị bén duyên nhau bởi hai thôn cách nhau một cánh đồng. Ngày mới lớn, như bao lớp trai làng khác, anh chàng Trần Văn Giảng điển trai, cao to đã thương thầm, nhớ trộm cô bé Hường dịu dàng, xinh xắn, ít hơn mình 3 tuổi, học lớp dưới. Ngày ngày, chung con đường mòn đợi để cùng nhau tới trường, những buổi chiều chăn bò bứt cỏ,…tình cảm cô cậu học trò cứ lớn dần lên theo thời gian. Tình yêu đầu đời trong sáng, thánh thiện vẫn bình yên trôi trong thời loạn lạc. Đến tháng 12 năm 1952, chị Hường và anh Giảng được 2 bên nội ngoại vun vén thêm rồi tổ chức một đám cưới giản dị, đơn sơ nhưng có sự chúc phúc của đông đảo mọi người.
Nhưng rồi, chỉ ở với nhau được một thời gian ngắn, sau khi cưới thì tháng 9/1953, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc, xa bố mẹ, xa vợ, chàng trai Trần Văn Giảng tình nguyện nhập ngũ, tham gia bộ đội chủ lực chống Pháp ở Điện Biên Phủ, mong góp một phần sức mình cho công cuộc giải phóng của toàn dân tộc.
“Do chiến tranh, ai cũng muốn giữ chồng ở lại bên mình nhưng vì đất nước nên tôi cũng không nỡ. Ngày anh ấy đi, gia đình nội ngoại đều nghèo đói chỉ có câu chuyện dặn dò tâm tình để chồng mình ra đi chân cứng đá mềm. Đến đầu tháng 11, anh ấy biên thư về thông tin cho vợ và gia đình là đã vào bộ đội chủ lực. Lá thư nhắn nhủ tôi phải cố gắng chăm sóc bố mẹ thay anh, và hứa sau ngày gia đình đoàn viên, anh sẽ bù đắp cho em nhiều hơn nữa” – bà Hường rưng rưng nhớ lại. Bà vẫn nhớ mãi cái ngày chồng khoác ba lô lên đường ra chiến trận, tiễn anh đi ở đoạn Cầu Lồi năm ấy, khi bóng chồng ngồi trên xe khuất dần, người vợ trẻ chỉ biết giấu những giọt nước mắt thầm sau tay áo.
Từ ngày chồng ra trận, bà Hường một mình tần tảo với việc nhà, chăm sóc bố mẹ chồng chu đáo, mong rồi đây gia đình lại đoàn tụ, vợ chồng sớm tối có nhau, bà sẽ sinh cho ông những đứa con mà ông vẫn từng bảo: “anh muốn em sinh cho anh 4 đứa con, anh sẽ đặt chúng là Trung, Phú, Hạnh, Phúc”.
Dù mắt đã mờ nhưng bà Hường vẫn đi chợ để vơi nỗi buồn
Nhưng cảnh đời khéo đùa cảnh người. Duyên phận kết họ thành đôi lứa, thành vợ chồng tri kỉ, thì cũng chính duyên phận để bà Hường ở lại trong sự chờ mong, đơn độc. Lá thư đầu tiên ông Giảng viết gửi về cũng là lá thư cuối cùng mà bà Hường được nhận. Không thấy tin tức chồng, hàng tháng bà vẫn viết thư nhờ người gửi thư theo địa chỉ cũ nhưng chẳng thấy hồi âm tin tức.
Mãi cuối tháng 5/1954, bà nhận được giấy báo tử từ Mặt trận Điện Biên Phủ gửi về, ông Trần Văn Giảng đã hi sinh. Cả gia đình anh ở quê nhà đau xót cả một thời gian dài. Còn bà Hường như lặng người đi khi hay tin chồng mình không còn nữa. Nỗi đau ấy như xé nát tim can người vợ trẻ nơi quê nhà mòn mỏi ngóng chồng hàng năm trời. Lúc nhận được tin dữ, bà ngã quỵ cùng với nỗi đau. Cả một thời gian dài sau đó, triền miên trong những giấc mơ, bà vẫn không tin đó là sự thật. Bà gầy rộc đi sau bao đêm thức trắng.
“Đau buồn lắm cháu ạ. Vợ chồng ở với nhau chưa tròn một năm kể từ khi cưới cho đến ngày ông ấy ra trận. Chưa có với nhau một đứa con cho vui cửa, ấm nhà, ông ấy đã vĩnh viễn ra đi. Cả lời hứa năm nào đợi chờ, thủy chung mong ngày chồng về đoàn tụ. Nào ngờ, chiến tranh khiến vợ chồng mãi mãi phải lìa xa nhau” - bà Hường tâm sự.
Cũng từ ngày biết tin chồng mình không còn nữa, bà Hường vẫn ở vậy hàng ngày ôm hình bóng chồng như một điểm tựa để sống cho đến ngày hôm nay, chẳng màng đến hạnh phúc riêng của bản thân. Bao nhiêu năm qua, bà tự sưởi ấm cuộc đời mình bằng những ký ức về ông và nỗi khắc khoải, sự dằn vặt vì chưa thấy “mộ” của chồng. Đáng buồn hơn nữa là một thời gian sau khi ông Giảng hi sinh thì bố chồng cũng qua đời, rồi lại thư báo từ chiến trường gửi về hai người em ruột của ông cũng qua đời. Vậy là trong 4 anh chị em của ông Giảng thì cả ba anh em đều là Liệt sỹ. Cô em gái út lại lấy chồng xa. Trong căn nhà cũ vốn vắng bóng người nay chỉ còn hai mẹ con cô quạnh.
Cất nỗi đau riêng tận sâu đáy lòng, bà tự nhủ phải vững tâm lên để sống, để làm việc, để có thể chăm sóc mẹ chồng chu đáo. Bởi đối với bà, bây giờ mẹ chồng chính là niềm an ủi, nơi nương tựa và thấp thoáng bóng dáng chồng vẫn sớm tối cùng bà. Bà phải thay chồng làm trọn chữ hiếu. Có như vậy, ông Giảng mới nhắm mắt được nơi chín suối cùng những người đồng đội đã hy sinh của mình.
Thời gian trôi, mẹ chồng thấy bà cứ một mình trong lẻ loi đơn chiếc, mẹ thúc giục bà đi bước nữa để có bờ vai nương tựa sau này, nhưng bà luôn tìm cách từ chối. Vẫn một lòng với ông Giảng. Mỗi năm, cứ đến ngày thương binh liệt sỹ bà đều thắp hương dâng lên bàn thờ liệt sỹ Giảng và làm giỗ chu đáo. Điều mà bà thấy thẹn lòng và tủi thân nhất đó là từ ngày lấy nhau, hai vợ chồng không có lấy một tấm hình chụp chung, chồng mất bà cũng không có đến một tấm hình để thờ chồng.
Và bà mong mỏi nhất là “cầu mong vong hồn của anh hiện về báo là anh đang nằm ở nơi mô để đi tìm đưa anh về sum họp cùng gia đình, tổ tông”. Nhưng tất cả đều không được hay tin tức gì. Suốt gần 60 năm qua bà sống chắt chiu từng đồng lương ít ỏi, đi từng buổi chợ bán dăm ba cái trứng tích góp, để đi tìm hài cốt của chồng.Bà đã tự mình mò mẫn khắp chiến trường Điện Biên Phủ, hỏi thăm lần lượt những đồng đội của chồng...vẫn bặt vô âm tín, chưa thấy hài cốt của ông Giảng. Thấy bà vẫn khó nhọc một mình lặn lội đi tìm mộ chồng như vậy, nhiều người thân khuyên can; “dù sao thì người chết đã rồi, anh ấy còn có đồng đội bạn bè dưới ấy, chị hãy giữ gìn lấy sức khỏe bạn thân”. Nhưng bà vẫn không nản lòng mà tiếp tục hy vọng sẽ tìm thấy mộ chồng.
Tuổi đã cao, sự minh mẫn của bà cũng không còn như xưa nữa. Bà cũng không còn sức để đi tìm mộ chồng như ngày trước. Trong căn nhà ngày ấy, khi mới về làm dâu và bây giờ cũng không có gì khác, ngoài sự trống trải. Nhen nhóm trong bà vẫn là sự bùng cháy nổi nhớ ông Giảng. Để rồi, lỡ có ai tới hỏi thăm về chồng bà, sao không lấy một tấm chồng nương tựa?, tìm lấy một đứa con cho vui cửa vui nhà?, hỏi về phần mộ của ông đã tìm thấy chưa ???, tim bà lại chỉ biết quặn thắt, bà ốm nằm liệt giường suốt mấy tuần liền. Với bà, ông Giảng luôn chiếm vị trí quan trọng. Tình cảm đó vẫn âm ỉ... chỉ đợi cơn gió nhẹ sẽ bùng cháy ngay tức khắc, biến thành những trận ốm “mê man” nhiều tuần...
Thấm thoát trôi, người vợ trẻ ngày ấy, người vợ già hôm nay với 83 tuổi đời và 60 năm trôi qua...vẫn một mình đơn độc chung thủy thờ chồng và vẫn hy vọng trước lúc rời cõi cuộc đời sẽ tìm được mộ của ông Giảng.
Kiều Nga
.