Theo báo cáo từ Sở GD&ĐT Nghệ An, đầu năm học 2012-2013, toàn tỉnh có gần 750 học sinh bỏ học sau dịp hè, chiếm tỷ lệ 0,14%. Thực tế cho thấy, việc học sinh bỏ học có thể kéo theo nhiều hệ lụy cả trước mắt lẫn lâu dài, không chỉ đối với cá nhân, gia đình học sinh mà cả với nhà trường và xã hội.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học. Trước hết, chất lượng đầu vào của các cấp học không đều. Đối với những học sinh không có nền kiến thức cơ bản, đủ để học ở cấp cao hơn nhưng vì một lý do nào đó vẫn vượt qua các kỳ thi chuyển cấp, tất nhiên không thể theo kịp chương trình học mới khó hơn, đã trở nên chán học và cuối cùng là bị lưu ban.
Khi đã bị lưu ban, không phải em nào cũng đủ bản lĩnh để học lại, rất nhiều em đã bỏ học do mặc cảm, xấu hổ hoặc buộc phải nghỉ học do quá tuổi. Có thể nói, ở đâu có nhiều học sinh lưu ban, ở đó có nhiều học sinh bỏ học.
Nhiều học sinh có học lực yếu, kém tự cảm thấy bản thân không thể “lấy” được một “chỗ ngồi” ở giảng đường đại học nên đã bỏ học trước vì nếu thi cử nghiêm túc thì những học sinh này rất khó để thi đậu đại học. Khi mục tiêu lên lớp và đậu đại học trở nên khó thực hiện thì những học sinh yếu kém sẽ bỏ học nhiều. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất, dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học trong thời gian qua.
Năng lực chuyên môn, ý thức trách nhiệm của một bộ phận giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm chưa cao. Sự kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và tổ chức hội phụ huynh trong việc giáo dục học sinh yếu kém, học sinh cá biệt còn hạn chế. Việc thực hiện phân loại học sinh trong lớp để lên kế hoạch bồi dưỡng, tổ chức phụ đạo, giúp đỡ học sinh yếu kém trong các nhà trường phổ thông hiện nay chưa thật tích cực. Trong khi, công việc này lại đòi hỏi nhiều công sức, sự kiên trì và tâm huyết của những người có liên quan.
Sau kỳ nghỉ hè, nhiều trường lớp vắng học sinh vì các em bỏ học
Tình hình quản lý nề nếp học tập của học sinh hiện nay cũng đang có vấn đề. Đối với những học sinh lười học, học kém thì việc phải ngồi liên tục trong lớp ở tất cả các tiết học, các buổi học thực sự là một “cực hình”. Khi đó, sức nặng của bản nội quy nhà trường không đủ để răn đe nên những học sinh này luôn tìm cách trốn học. Trốn học nhiều làm cho kết quả học tập ngày càng giảm sút, điểm tổng kết thấp dưới trung bình, tất nhiên phải lưu ban.
Bên cạnh đó, do bận rộn với công việc mưu sinh nên rất nhiều phụ huynh đã không quản lý nổi tình hình học tập của con em mình, cứ thấy con em hàng ngày đi học nhưng thực tế chúng đi đâu, làm gì phụ huynh không hề biết. Thậm chí có phụ huynh khi thấy nhà trường mời đến họp xét kỷ luật học sinh mới biết con mình đã vi phạm nghiêm trọng nội quy nhà trường hoặc bỏ học dài ngày.
Để giải quyết triệt để tình trạng học sinh bỏ học không phải là việc dễ dàng, cần có các giải pháp đồng bộ. Trước hết cần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện để giảm tỷ lệ học sinh yếu kém. Muốn làm được điều này, ngay từ đầu năm học phải tiến hành phân loại học lực của học sinh thật chính xác, tổ chức ngay một đợt khảo sát chất lượng đầu năm và cần phải tiến hành thật nghiêm túc, việc đánh giá học sinh phải được thực hiện một cách khách quan, chính xác, công bằng.
Sau khi đã có kết quả phân loại học lực học sinh, cần lựa chọn những giáo viên có năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm tốt, tiến hành phụ đạo, bồi dưỡng kiến thức cho những học sinh yếu kém. Mục tiêu của phong trào chống tình trạng học sinh “ngồi nhầm lớp”, không phải cho học sinh ở lại được nhiều, mà phải tìm biện pháp nâng cao trình độ để học sinh có thể lên lớp và tiếp thu được kiến thức mới.
Hiện nay, hầu như tất cả học sinh học xong THCS đều có nguyện vọng học lên THPT, nhưng trong thực tế không phải em nào cũng đủ trình độ để học tiếp. Do vậy, công tác phân luồng hướng nghiệp cần được chú trọng ngay từ cấp học THCS. Đặc biệt là đối với học sinh lớp 9.
Nên có sự định hướng để những học sinh có học lực yếu kém không thể tiếp nhận được khối lượng kiến thức ở bậc học cao hơn có thể chọn học một nghề phù hợp. Phụ huynh và học sinh cần nhận thức được rằng khi đã không đủ khả năng, năng lực học lên THPT, việc mạnh dạn đi học nghề là giải pháp để đảm bảo cuộc sống tương lai sau này.
Cần tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Cụ thể, cần có một sự phối hợp chặt chẽ, có chiều sâu giữa: Ban giám hiệu - Giáo viên chủ nhiệm - Cha mẹ học sinh - Chính quyền, đoàn thể địa phương để tất cả những học sinh có biểu hiện sa sút về học tập hoặc vi phạm nội quy, vi phạm pháp luật phải được quản lý và có biện pháp ngăn ngừa, giáo dục ngay từ đầu. Hơn lúc nào hết, đối với những học sinh này rất cần sự nghiêm khắc mà bao dung, độ lượng, nhiệt tình của mọi người trong xã hội.
Một biện pháp quan trọng khác là cần khuyến khích, tôn vinh những giáo viên sau một năm học đã có công giáo dục học sinh cá biệt, học sinh yếu kém. Thực tế cho thấy, giáo dục một học sinh cá biệt, có học lực yếu kém mất nhiều công sức, thời gian không kém gì so với việc bồi dưỡng một học sinh giỏi.
Bùi Minh Tuấn
.