(Kỳ 3)
Trong quá trình đi tìm kiếm thông tin về phi công Mỹ John “Robbie” Robertson mất tích trong Chiến tranh Việt Nam, phi công Ralph Wetterhahn đã được giới thiệu tới gặp một số phi công của Không quân Nhân dân Việt Nam, trong đó có Nguyễn Văn Bảy và Đỗ Huy Hoàng vào năm 1997.
Ông Nguyễn Văn Bảy (thứ 2 từ phải sang) tiếp đón các cựu phi công Mỹ đến thăm nhà. Ảnh: My Lăng/Tuổi Trẻ. |
Gặp lão nông Nguyễn Văn Bảy với ký ức vẹn nguyên
Phi công Wetterhahn và ông Bảy ngồi nói chuyện qua một cái bàn. Ông Bảy đọc thông tin từ một mảnh giấy nhỏ nhàu nhĩ. Theo lời phiên dịch viên, ông Bảy liệt kê tất cả các trận không chiến của mình trong đó. Ông miêu tả mỗi trận giao chiến này bằng cách đọc ngày tháng, sau đó nói chi tiết trận đánh, từ vị trí, điều kiện bay, số và loại máy bay, các động tác cơ động và bay đối phó, và kết cục trận chiến.
Wetterhahn đối chiếu thông tin do ông Bảy cung cấp và nhận thấy rằng các thông tin đó rất phù hợp với các bút lục chính thức của cả Mỹ và Việt Nam.
Wetterhahn tiếp tục ghi chú và kiểm tra tài liệu trong khoảng 2 tiếng đồng hồ thì ông Bảy bắt đầu kể về cuộc chạm trán số 6, vào ngày 16/9/1966.
Lúc đó cả Wetterhahn và ông Bảy đều dừng lại, ngước nhìn nhau. Đó là trận chiến liên quan đến phi công mất tích Robbie.
Lúc ông Bảy tầm 63 tuổi, ông vẫn đang trồng xoài và nuôi cá tại một trang trại nhỏ gần thành phố Hồ Chí Minh.
Trong quá trình nói chuyện với phi công Bảy, rồi phi công Lưu Huy Chao, về điều kiện huấn luyện và trải nghiệm chiến đấu của ông thì phi công Wetterhahn ngày càng thấm thía các cựu đối thủ của mình can đảm đến nhường nào.
Nguyễn Văn Bảy sinh vào năm 1936 ở miền nam Việt Nam. Lúc 17 tuổi ông ra Bắc, chiến đấu chống lại quân Pháp. Khi chiến tranh chống Pháp kết thúc vào năm 1954 và đất nước tạm thời bị chia cắt làm 2 miền, ông chọn ở lại miền Bắc. Lúc đó ông đã mất liên lạc với gia đình.
Ông tham gia khóa huấn luyện bay vào năm 1962 và là một trong các phi công đầu tiên được gửi sang Trung Quốc để học lái tiêm kích. Ông kể: “Mất 4 năm huấn luyện, đều ở Trung Quốc. Còn giảng viên là người Nga”. Ông tâm sự, mình “tiến thẳng từ xe đạp lên máy bay”. Mãi về sau ông mới học lái ô tô.
Các học viên khác, như Đỗ Huy Hoàng, có năm đầu huấn luyện ở Trung Quốc rồi hai năm sau học ở Liên Xô. Giống phi công Mỹ, phi công Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bay khoảng 200 giờ huấn luyện trước khi tham chiến. Ông Bảy, ông Hoàng, và ông Lưu Huy Chao có khoảng 100 giờ bay huấn luyện bằng máy bay MiG-17.
Việc huấn luyện không hề đơn giản với ông Bảy. “Tôi ốm suốt thời gian đầu khóa huấn luyện. Nên tôi phải cắt một nửa quả bóng đá, buộc vào một sợi dây và đeo quanh cổ mỗi khi bay. Khi nào muốn ói, tôi sẽ nôn vào quả bóng”.
Phi công Chao nhớ lại rằng máy bay F-4 (biệt danh “Con ma”) là nỗi ám ảnh của mình trong quá trình huấn luyện. “Việc huấn luyện của chúng tôi bao gồm nhiều thảo luận về cách chiến đấu với F-4, được coi là mối đe dọa nghiêm trọng nhất do nó có nhiều tính năng tiên tiến”.
Ông Bảy vẫn đang trong quá trình huấn luyện vào năm 1964, đó là năm đầu tiên máy bay Mỹ tấn công miền Bắc Việt Nam. Vào ngày 5/8/1964 (giờ Mỹ), hai tàu sân bay Mỹ thực hiện tấn công vào các mục tiêu duyên hải, gọi là để trả đũa cáo buộc cho rằng “Bắc Việt” sử dụng ngư lôi để tấn công một khu trục hạm Mỹ thu thập thông tin tình báo ở Vịnh Bắc bộ (đây chính là sự kiện Vịnh Bắc bộ do Mỹ dựng lên để can thiệp quân sự vào Việt Nam - ND). Nhưng lúc đó ban lãnh đạo Việt Nam kiềm chế, chưa sử dụng không quân vội.
Đám cưới 15 phút của chàng phi công trẻ
Đến năm 1965, Nguyễn Văn Bảy về nước. Lúc này không quân Mỹ phát động chiến dịch mang tên Sấm Rền ném bom miền Bắc Việt Nam, và không quân Việt Nam đã sẵn sàng huy động máy bay MiG để đối phó. Từ tháng 4-12/1965, phi cơ của Không quân Nhân dân Việt Nam non trẻ đã nghênh chiến với máy bay quân sự Mỹ trong 156 trận và giành 15 chiến thắng.
Vào năm 1966, khi bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên (một chiếc F-4), ông viết cho cô dâu của mình, là một sinh viên kế toán ở Hà Nội, rằng “đây là máy bay Mỹ đầu tiên mà anh bắn hạ”.
Ông Bảy nhớ lại, lúc đó ông mới kết hôn được hơn 1 tuần. Đám cưới của ông kéo dài có 15 phút. “Tôi cởi bộ đồ bay, mặc áo dân sự, làm nghi lễ cưới, vẫn đủ thời gian để hút một điếu thuốc. Rồi sau đó lại mặc lại đồ bay và quay trở lại chế độ trực chiến. Tôi bay chiến đấu một lèo trong 12 ngày rồi mới gặp lại vợ”.
Phi công Lưu Huy Chao cho hay, các phi công Việt Nam khi đó đôi lúc ngủ ngay bên dưới cánh máy bay khi đang trực chiến báo động. “Thời đó vào một ngày điển hình, chúng tôi ở bên máy bay vào lúc 8h hoặc 8h30, sẵn sàng cất cánh. Đôi lúc lệnh cất cánh được thể hiện bằng pháo sáng, có lúc là bằng kẻng... Kẻng được làm từ vỏ bom Mỹ đã tháo thuốc nổ. Kẻng treo trên cây và người ta dùng búa nện vào kẻng để tạo ra tiếng báo động cất cánh”./.