Theo chỉ dẫn của Đại tá Đặng Đức Song, tôi tìm đến ngôi nhà của ông trong con ngõ nhỏ ở phố Pháo Đài Láng. Vị Đại tá, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân - “dũng sĩ Đồi Xanh năm nào” dung dị trong chiếc áo bộ đội bạc màu đón chúng tôi với nụ cười hiền hậu. Và câu chuyện ông kể như những thước phim quay chậm đưa chúng tôi trở lại thời khói lửa hào hùng mà thế hệ ông đã đi qua.
Từ làng tre Chi Điền ra chiến trận
Đại tá Đặng Đức Song tên thật là Đặng Huy Sang, sinh năm 1934 tại làng Chi Điền, xã Cộng Hòa, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Là con út trong một gia đình có 7 người con, tuổi thơ cậu bé Sang trải qua những năm tháng thiếu thốn, lam lũ và vất vả. Cho đến giờ, hình ảnh mẹ băm củ chuối để ăn chống đói năm 1945 vẫn là điều ám ảnh trong ký ức của ông.
“Có một hôm tôi đi kiếm rau ở bãi về, vừa vào đến sân đã thấy mẹ ngã gục vào đống củ chuối đang băm. Tôi lao đến ôm vai mẹ lay gọi nhưng mặt mẹ tái mét không nói được câu nào. Tôi sợ quá khóc ầm lên kêu hàng xóm sang giúp. Bà hàng xóm đem sang một bát cháo loãng đổ vào miệng mẹ tôi. Hết lưng bát nước cháo, mẹ dần tỉnh lại, khi đó tôi mới nhìn thấy máu rơm rớm ở ngón tay cái. Đến lúc ấy tôi mới biết do mệt và đói quá nên khi băm rau chuối, mẹ đã băm vào ngón tay cái mà chẳng biết. Sau đó thì mẹ mất vì kiệt sức vì đói và vì bệnh kiết lị kéo dài” - Đại tá Song nhớ lại.
Đại tá Đặng Đức Song (người đứng thứ hai từ phải sang) cùng các đồng đội năm xưa. Ảnh: NVCC. |
Làng tre Chi Điền quê ông nằm sát chân đê sông Kinh Thầy. Ẩn sau những lũy tre xanh ven đê là những mái nhà tranh vách đất lúp xúp, lác đác mới có một vài nhà ngói sân gạch, có bể xây trữ nước mưa, còn lại cả làng đều ra gánh nước giếng cửa đình về ăn quanh năm. Lên 9 tuổi, cậu bé Song mới được đi học nhưng cũng chỉ một năm thì phải nghỉ học ở nhà, ngày đi chăn trâu cắt cỏ, tối ra đình theo lớp bình dân học vụ. Cũng chính ở lớp học này mà cậu bé Song biết đến bài hát Quốc ca, biết các anh, các bác tham gia hoạt động Việt Minh...
Cuối năm 1947, đầu năm 1948, giặc chiếm quê ông lập bốt làng tre Chi Điền. Ngày ngày chúng đi càn quét lùng sục, bắt phu, bắt lính liên miên. Đặng Đức Song cũng bị bắt đi phu, hết phục dịch xây bốt trên huyện lại về đánh vữa xây bốt Chi Điền ở đầu làng. Ông bảo, vất vả nhất là mùa đông phải ngủ ở chuồng trâu để canh lũ trâu do giặc đi càn ở các thôn làng bắt về thịt ăn dần. Có những đêm nằm trên lưng trâu trùm áo tơi hoặc bao tải, không có củi để đốt lửa sưởi hên hai hàm răng cứ va vào nhau lập cập vì rét...
Từ một thanh niên sống trong vùng địch, Đặng Đức Song gia nhập Đội Thiếu niên Quyết tử và tham gia hoạt động du kích ở địa phương. Đến năm 1952, ông tình nguyện nhập ngũ, rồi được phân về Đại đội 28, Tiểu đoàn bộ binh 439 (đến năm 1956 đổi là Đại đội 5, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 98, Đại đoàn 316).
Trở thành anh Vệ quốc đoàn, Đặng Đức Song tham gia chiến đấu giải phóng Tây Bắc lần 1 năm 1952. Ông được chọn làm liên lạc cho đồng chí Hoàng Niệm (chỉ huy tiểu đoàn), làm nhiệm vụ đi tiền trạm cho đoàn cán bộ chiến sĩ bổ sung cho Trung đoàn 98 ở Điện Biên Phủ. Ở đây được khoảng 3 tháng, đến tháng 4-1953, Tiểu đoàn ông được phân công sang chiến đấu ở Lào.
Cuối năm 1953, ông cùng đồng đội về nước, tham gia chiến dịch Đông Xuân (1953-1954). Đại đoàn 316 đã thực hiện thắng lợi đòn tiến công chiến lược đầu tiên trong chiến dịch Đông Xuân, giải phóng Lai Châu. Sau thắng lợi của đòn tiến công chiến lược đầu tiên trong chiến dịch Đông Xuân, đơn vị của ông được lệnh quay trở lại Điện Biên Phủ, giữ chốt khu vực Đồi Xanh cạnh bản Tà Lèng.
Đại tá Đặng Đức Song chia sẻ với các bạn trẻ trong buổi giao lưu “65 năm bản hùng ca Điện Biên” tại thư viện Hà Nội tháng 4-2019. |
Ký ức Đồi Xanh
Đại tá Đặng Đức Song kể, từ ngày 20-11-1953, địch đã nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Chỉ trong 3 ngày từ 20 đến 22-11-1953, chúng đã đổ 6 tiểu đoàn dù xuống đây, khoảng 4.500 quân. Khi mới vào phòng ngự ở Đồi Xanh, ông cùng các cán bộ tiểu đội đi xem trận địa. Gần 10 ngày đào hầm, hào, công sự ở cao điểm 781 - tên gọi mật khu Đồi Xanh - đơn vị ông đã chốt phòng ngự liên tục tại đây suốt 32 ngày đêm.
“Ngày 5-2-1954, địch đánh từ Đồi Cháy tới chân Đồi Xanh, đơn vị tôi tổ chức phản kích buộc chúng phải rút lui. Đến ngày 3-3, địch bắn đại bác liên tiếp lên Đồi Xanh. Các đơn vị Trung đội 11, Đại đội 28 chúng tôi phòng ngự trên đồi do anh Sông làm Trung đội trưởng chỉ huy, tôi là Tiểu đội phó, hôm ấy giữ thêm trung liên.
Địch tấn công đợt 1, chúng tôi bắn dồn dập bắt chúng phải rút lui. Đợt 2, địch tấn công lên, chúng tôi vẫn bắn dồn dập bắt chúng phải rút lui. Đợt 3, địch cho đại bác bắn dồn dập làm sập nhiều hầm. Trung đội trưởng ra lệnh rút. Tôi ở mỏm cao không nghe thấy lệnh nên ở lại cùng 2 đồng chí nữa. Địch bắn dữ dội, cây, đất đá đổ xuống người, Đồi Xanh trở thành “đồi đỏ” vì màu của đất. Cậu Chương tiếp đạn ở công sự cách tôi khoảng 5 mét đã hi sinh.
Tôi ngồi cùng Danh, tân binh mới vào được 3 hôm. Danh tiếp đạn cho tôi bắn trung liên. Địch bò lên đông tới cả trung đội, một quả lựu đạn địch ném rơi bên phải miệng hào. Nghe tiếng kêu xèo xèo, khói trắng phụt ra quay tròn bốc lên, tôi nhanh chóng dùng tay hất quả lựu đạn lăn xuống phía địch, nổ “đùng” một tiếng, mảnh đạn cùng đất đá văng ra tung tóe.
Địch tiếp tục bắn lên, tôi chỉnh súng bắn trả và hạ gục ngay 2 tên. Những tên khác nhìn thấy thế nằm rạp cả xuống. Tôi ném lựu đạn cầu vồng như lúc trước, lựu đạn nổ lại thấy địch kêu lên ô ố rồi chạy mất. Trời chạng vạng tối, một lát sau thì không còn thấy người nữa...” - Đại tá Đặng Đức Song nhớ lại.
Ngày 5-3-1954, Đặng Đức Song vẫn giữ trung liên, phối hợp với Trung đội 10 do đồng chí Nguyễn Thế Lợi làm đội trưởng chiến đấu tiếp tại Đồi Xanh. Địch dùng 3-4 xe tăng và 2 tiểu đoàn đánh từ sáng sớm để chiếm lại Đồi Xanh.
Đại tá Đặng Đức Song nhớ lại: “Chúng tôi có 24 người, kể cả Danh và một số tân binh. Ngày hôm ấy ta đánh lui 6-7 đợt tấn công của địch. Anh Nguyễn Thế Lợi khai hỏa đầu tiên. Chúng tôi chờ địch đến gần khoảng 15 mét mới bắn. Địch tưởng đại bác của chúng đã bắn quân ta tan tành rồi, không ngờ hầm phòng ngự của ta kiên cố nên địch không thể nào đánh chiếm được Đồi Xanh.
Đại tá Đặng Đức Song giờ đã sang tuổi 85. |
Trưa 6-3-1954, Trung đoàn trưởng Vũ Lăng và chính trị viên Tiểu đoàn 439 Đào Văn Xuân đến gắn Huân chương Chiến công cho chúng tôi ngay trong chiến hào. Sau trận đánh, đồng chí Chu Huy Mân, Chính ủy Đại đoàn 316 quyết định tặng danh hiệu “Dũng sĩ Đồi Xanh” cho tất cả 24 đồng chí đã trấn giữ trên Đồi Xanh”.
Suốt 32 ngày đêm phòng ngự, đơn vị ông đã đập tan nhiều đợt tấn công của địch, chấm dứt âm mưu mở rộng vòng vây quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Nhưng để giữ vững được trận địa ấy, không ít đồng đội của ông đã bị thương và có người đã hi sinh ngay trên chiến hào.
Bản thân Đặng Đức Song cũng bị thương ở bàn chân nhưng nỗi đau thể xác ấy với ông chẳng là bao so với sự mất mát những người đồng đội. Đó là đồng chí Chương, đồng chí Khoái, đồng chí Khơi, đồng chí Huệ, đồng chí Thi... và nhiều đồng chí khác đã nằm lại ở Đồi Xanh năm ấy.
Lấy lại lô cốt Cột Cờ đồi C1
Sau trận chiến ở Đồi Xanh, Đặng Đức Song nhận nhiệm vụ chỉ huy đội xung kích, cùng đồng đội đánh chiếm đồi C1, C2. Nhắc đến trận chiến này, ông lại nhớ đến người đồng chí đã cùng mình đặt trung liên trên đồi C1 bị địch bắn vào đầu: “Tôi lại băng bó, bế Hựu vào lòng. Dòng máu nóng của Hựu chảy vào da thịt tôi. Hựu nắm rất chắc tay tôi rồi từ từ tắt thở”.
Ông cũng nhớ đến người chiến sĩ bị thương hai chân, tay lăm lăm cầm 2 quả lựu đạn “chày” trao cho ông với giọng thều thào: “Địch... ở lô cốt Cột Cờ”, như thúc giục ông tiến lên phía trước. Và ông tự nhủ phải quyết tâm cùng đồng đội đánh lấy lại lô cốt Cột Cờ.
Đại tá Đặng Đức Song kể lại: “Quá trình giữa ta và địch giành giật ác liệt trên đồi C1 gần 10 ngày đêm, từ ngày 1-4 đến ngày 10-4-1954 thì đồi C1 bị chia đôi, mỗi bên một nửa. ta và địch cách nhau 15-20 mét. Địch ở điểm lô cốt Cột Cờ là điểm cao nhất của đồi C1. Lô cốt Cột Cờ là lô cốt cao nhất nên nếu đã chiếm lô cốt này, coi như đã làm chủ đồi C1. Từng tổ thay phiên nhau lên giữ đồi C1 từ 3 đến 4 ngày.
Thời gian đầu, địch thường xuyên ném lựu đạn sang trận địa của ta và ta cũng đánh lại. Hai bên đều tích cực đào hầm hào. Năm đó trời mưa rất nhiều, giao thông hào đầy nước bùn, hầm hàm ếch nhiều khi nước vào, mùi hôi thối, ruồi nhặng... Sau, chúng tôi đào hầm hàm ếch giữa hào cao hơn và ngụy trang cửa hầm, lấy dù của địch lót trong hầm để ngủ, lau chân tay bằng dù. Khi trời mưa to thì ra tắm: hứng nước vào tay, xoa lên mặt thấy thoải mái, khỏe hẳn ra và lấy dù trắng lau người cũng dễ chịu, ngủ ngon hơn. Khi tạm thời yên ắng, chúng tôi mang thư gia đình, thư người yêu gửi ra đọc cho nhau nghe...”.
Gần một tháng phòng ngự ở đồi C1, ông bảo căng nhất là địch thỉnh thoảng dùng súng phun lửa bắn sang. Nếu không cảnh giác, thụt nhanh xuống giao thông hào thì bị cháy tóc, quần áo hoặc bị bỏng, cháy da thịt, có đồng chí bỏng nặng, hi sinh. Có lần pháo địch bắn, ông bị lấp đến nửa người. Tỉnh lại, ông tiếp tục chiến đấu và còn đưa tiếp một đơn vị nữa lên chiến đấu.
Trên đường, gặp ổ trung liên địch bắn cản, ông bò đến gần ném lựu đạn diệt ổ trung liên tạo điều kiện cho đơn vị xung phong rồi chuyển thương binh về phía sau. Trong trận Mâm Xôi ngày 3-4-1954, ba ngày liền ông lội dưới hào, bùn ngập đến bụng đưa Đại đội trưởng Hoàng Văn Lới đi nghiên cứu mở cửa đột phá.
Những ngày cuối cùng của chiến dịch Điện Biên Phủ, ông và các đồng đội vẫn ngoan cường chiến đấu anh dũng trong vòng vây của địch. “Sáng 7-5-1954, nhờ có lựu pháo 105 của ta bắn yểm trợ, Trung đoàn trưởng Vũ Lăng hạ lệnh xung phong. Quân ta như lớp lớp sóng trào lên, áp đảo, đè bẹp sức kháng cự của kẻ thù, 600 tên địch đã phải đầu hàng. Thừa thắng tiến công, toàn trung đoàn tiến thẳng vào Mường Thanh.
Trước khí thế như vũ bão của quân ta cùng với tiếng loa gọi địch đầu hàng, những tốp cờ trắng xuất hiện rồi lan ra ngày càng nhiều. Đúng 17h30 phút ngày mồng 7-5, tướng De Castries cùng toàn bộ sĩ quan tham mưu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đầu hàng. Giờ toàn thắng đã đến, rừng cờ trắng trải ra khắp cứ điểm, hàng binh địch lũ lượt ra khỏi hầm, lên mặt đất” - Đại tá Đặng Đức Song xúc động nhớ lại.
65 năm kể từ khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, người chiến sĩ trẻ Đặng Đức Song ngày nào giờ đã bước sang tuổi 85. Mỗi lần nhắc đến thuở đôi mươi, người “dũng sĩ Đồi Xanh” năm xưa lại trào dâng bao niềm xúc động. Với ông, những năm tháng nơi chiến trường lửa đạn, khoảnh khắc đứng giữa lằn ranh sự sống và cái chết, niềm vui vỡ òa khi quân ta giành chiến thắng trong chiến dịch Điện Biên Phủ có lẽ là một trong những kỷ niệm đáng nhớ nhất của cuộc đời.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ngày 7-5-1956, ông Đặng Đức Song vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Tháng 7-1957, ông được cử đi dự Đại hội Liên hoan Thanh niên và Sinh viên thế giới lần thứ VI tại Moscow thuộc Liên Xô. Năm 1960, Anh hùng Đặng Đức Song được bầu làm đại biểu Quộc hội khóa II.
Cũng năm này, ông thi đỗ Đại học Bách khoa. Ra trường, từ một quản đốc phân xưởng vô tuyến điện, ông được tín nhiệm cử làm Giám đốc Nhà máy Thông tin M1 trong suốt 16 năm liền. Với những đóng góp trong chiến đấu và lao động sản xuất, Đại tá Đặng Đức Song đã nhận được nhiều bằng khen, huân, huy chương cao quý.