Thực hiện Chương trình kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV, chiều ngày 19/11, các đại biểu Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng điều hành nội dung làm việc.
Trước khi biểu quyết, các đại biểu Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Phan Thanh Bình giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. Theo đó, ngày 06/11/2018, các đại biểu Quốc hội đã cho ý kiến về nội dung giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học. Đa số ý kiến nhất trí với phạm vi điều chỉnh và sự cần thiết ban hành Dự thảo Luật; đánh giá cao việc tiếp thu, giải trình đầy đủ, nghiêm túc các ý kiến góp ý và cho rằng Dự thảo Luật cơ bản đáp ứng điều kiện để được xem xét, thông qua trong kỳ họp này. Trên cơ sở nghiên cứu ý kiến đại biểu Quốc hội đóng góp hoàn thiện thêm đối với Dự thảo Luật, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật trình Quốc hội xem xét, thông qua như sau:
Về hình thức và trình độ đào tạo giáo dục đại học, UBTVQH nhận thấy loại hình đào tạo chính quy được quy định trong Dự thảo Luật chính là loại hình đào tạo tập trung toàn thời gian, còn các hình thức đào tạo vừa làm vừa học, học từ xa là loại hình không tập trung. Căn cứ vào các loại hình đào tạo này, cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) được tự chủ quyết định hình thức, phương thức tổ chức và quản lý đào tạo phù hợp với từng loại hình và trình độ đào tạo của GDĐH. Tất cả các yêu cầu về nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, chuẩn kiến thức kỹ năng, kiểm tra đánh giá, chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo cho dù được thực hiện theo loại hình nào đều phải đảm bảo chất lượng như nhau. Khác biệt giữa các loại hình đào tạo chỉ là về thời gian đào tạo và kỹ thuật tổ chức, quản lý đào tạo. Bởi vậy, dự thảo Luật quy định không phân biệt về giá trị văn bằng do có các hình thức đào tạo khác nhau.
Chủ nhiệm Ủy ban Phan Thanh Bình báo cáo trước Quốc hội |
Về tự chủ đại học, UBTVQH chỉ rõ, Dự thảo Luật đã quy định rõ điều kiện, yêu cầu thực hiện quyền tự chủ tại khoản 2 Điều 32, theo đó, mức độ tự chủ của cơ sở GDĐH phụ thuộc vào việc đáp ứng đủ điều kiện tự chủ, những cơ sở chưa đáp ứng điều kiện tự chủ thì tiếp tục chịu sự quản lý chặt chẽ theo các quy định của Luật, đồng thời quy định trách nhiệm quản lý nhà nước trong quy hoạch và xác nhận tiêu chí các cơ sở GDĐH, do đó sẽ giới hạn việc các trường đồng loạt tự chủ dẫn đến mất cân bằng cung – cầu nhân lực. Dự thảo cũng quy định rõ nội hàm của các quyền tự chủ về học thuật trong hoạt động chuyên môn, tổ chức - nhân sự và tài chính - tài sản tại các khoản 3, 4, 5 Điều 32 và cụ thể hóa các nội dung này tại các điều, khoản tương ứng trong Luật. Hầu hết các nội dung liên quan đến chuyên môn (như về xác định chỉ tiêu tuyển sinh, nội dung, chương trình đào tạo, tổ chức và quản lý đào tạo, nghiên cứu khoa học…) đã được giao cho các trường tự chủ quyết định theo quy định của Luật hiện hành, trừ việc mở ngành đào tạo. Dự thảo Luật lần này mở rộng quyền tự chủ, cho phép các cơ sở GDĐH đáp ứng đủ điều kiện bảo đảm chất lượng và phù hợp nhu cầu thì được tự mở ngành đào tạo ở tất cả các trình độ của GDĐH, chỉ trừ các ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe, đào tạo giáo viên và an ninh, quốc phòng.
Về giảng viên và người học, tiếp thu ý kiến đại biểu, Dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung thêm khoản 8 Điều 60 về trách nhiệm của người học trong việc tuân thủ các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường. Để bảo đảm quyền lợi của người học trong các chương trình đào tạo ở các ngành mới mở, Dự thảo Luật đã quy định cơ sở GDĐH thực hiện đánh giá chương trình trước khi có khóa sinh viên đầu tiên tốt nghiệp và phải thực hiện kiểm định chất lượng chương trình ngay sau khi sinh viên khóa đầu tốt nghiệp. Nếu không thực hiện đánh giá, kiểm định hoặc nếu kiểm định không đạt thì cơ sở GDĐH không được tiếp tục tuyển sinh, có trách nhiệm cải thiện các điều kiện để bảo đảm chất lượng chuẩn đầu ra của trình độ đào tạo.
Chủ nhiệm Ủy ban Phan Thanh Bình nêu rõ, bên cạnh các nội dung tiếp thu, giải trình trên đây, UBTVQH cũng đã chỉ đạo rà soát, chỉnh lý, hoàn thiện cả về nội dung và kỹ thuật văn bản bảo đảm rõ ràng, dễ hiểu và thống nhất trong hệ thống văn bản pháp luật.
Toàn cảnh phiên họp |
Sau khi nghe Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua dự thảo Luật với 408 đại biểu tán thành, chiếm 84,12% tổng số đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học thông qua tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV đã sửa đổi, bổ sung 37 Điều của Luật Giáo dục đại học. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2019. Trong đó Luật sửa đổi, bổ sung quy định trình độ và hình thức đào tạo của giáo dục đại học như sau: “Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học bao gồm trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ. Hình thức đào tạo để cấp văn bằng các trình độ của giáo dục đại học bao gồm: chính quy, vừa làm vừa học, đào tạo từ xa. Việc chuyển đổi giữa các hình thức đào tạo được thực hiện theo nguyên tắc liên thông. Cơ sở giáo dục đại học được tổ chức hoạt động giáo dục thường xuyên, cung cấp dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn cấp chứng chỉ, chứng nhận phù hợp với ngành, lĩnh vực đào tạo của mỗi cơ sở theo quy định của pháp luật để đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người học. Chính phủ quy định trình độ đối với một số ngành đào tạo chuyên sâu đặc thù”.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học cũng quy định rõ về quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học: “Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình theo quy định của pháp luật. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học. Quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn bao gồm ban hành, tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn chất lượng, chính sách chất lượng, mở ngành, tuyển sinh, đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác trong và ngoài nước phù hợp với các quy định của pháp luật. Quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện các quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu chuẩn, chế độ của từng vị trí việc làm; tuyển dụng, sử dụng và cho thôi việc đối với giảng viên, viên chức và người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong cơ sở giáo dục đại học phù hợp với quy định của pháp luật. Quyền tự chủ trong tài chính và tài sản bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện các quy định nội bộ về các nguồn thu, quản lý và sử dụng các nguồn tài chính, tài sản; thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển; chính sách học phí, học bổng cho sinh viên và các chính sách khác phù hợp với quy định của pháp luật.”./.