(Congannghean.vn)-Nghệ An là 1 trong 4 tỉnh (Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh và Lào Cai) thực hiện thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) đối với cơ sở sản xuất công nghiệp. Quá trình triển khai, bên cạnh những thuận lợi, vẫn còn những vướng mắc trong xác định đối tượng phải chi trả, mức chi trả, phương thức chi trả…
Công ty CP Bia Sài Gòn - Sông Lam - 1 trong 12 cơ sở sản xuất công nghiệp được lựa chọn thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng |
Thực hiện Nghị định số 99 ngày 24/9/2010 của Chính phủ về chính sách chi trả DVMTR và Văn bản số 5337 ngày 27/6/2016 của Bộ NN&PTNT về thí điểm chi trả DVMTR đối với cơ sở sản xuất công nghiệp, sau quá trình tổng hợp, rà soát, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh (Quỹ BVPTR) đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Quyết định số 1856 ngày 9/5/2017 quy định thí điểm chi trả DVMTR đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp có sử dụng nước trực tiếp từ nguồn nước để phục vụ sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh.
Quá trình thực hiện, Quỹ cũng đã tham mưu Sở NN&PTNT thành lập đoàn công tác trực tiếp làm việc tại 12 cơ sở sản xuất công nghiệp được lựa chọn thí điểm, đơn cử như: Công ty CP kim loại màu Nghệ Tĩnh, Công ty CP bia Sài Gòn - Sông Lam, Công ty CP chuỗi thực phẩm TH, Công ty CP Mía đường Sông Con… Theo đó, đoàn đã trực tiếp truyền đạt các thông tin, quy định về chính sách chi trả DVMTR, đặc biệt là việc thống nhất các nội dung thực hiện thí điểm chi trả DVMTR…
Cụ thể, các cơ sở phải chi trả tiền DVMTR cho các chủ rừng của khu rừng đầu nguồn cung ứng DVMTR về điều tiết và duy trì nguồn nước; việc chi trả uỷ thác thông qua Quỹ BVPTR tỉnh, với mức chi trả là 50 đồng/m3 nước thô. Qua thực hiện, lượng nước thô để tính tiền chi trả DVMTR của các cơ sở chủ yếu căn cứ vào số liệu trong giấy phép khai thác nước mặt do Sở Tài nguyên và Môi trường cấp phép và quản lý (7 cơ sở).
Theo ông Nguyễn Khắc Lâm, Giám đốc Quỹ BVPTR tỉnh: Thời gian qua, việc thực hiện thí điểm chi trả DVMTR đối với hoạt động sản xuất công nghiệp khá thuận lợi; qua đó góp phần tạo nguồn thu thực hiện tốt công tác bảo vệ và phát triển rừng nhằm cung cấp, điều tiết nguồn nước phục vụ sản xuất trong tương lai.
Quá trình triển khai chính sách mới này, bên cạnh những thuận lợi, cũng bộc lộ nhiều khó khăn, vướng mắc nhất định; đặc biệt là liên quan đến việc xác định đối tượng phải chi trả, mức chi trả, số tiền chi trả, phương thức chi trả. Bên cạnh đó, do chưa nắm rõ những nội dung cũng như tầm quan trọng của việc chi trả DVMTR nên một số cơ sở sản xuất công nghiệp vẫn còn tình trạng chậm kê khai, chậm nộp tiền chi trả DVMTR… Một khó khăn khác xuất phát từ thực tế các cơ sở thuộc diện chi trả DVMTR phân bố rải rác tại nhiều địa phương trong tỉnh nên kinh phí để thực hiện công tác thu lớn, trong khi đó tiền thu được từ nguồn thu này lại ít.
Ngoài ra, trong giấy phép khai thác nước mặt do Sở Tài nguyên và Môi trường cấp phép có nội dung yêu cầu các cơ sở phải thực hiện việc lắp đồng hồ đo lưu lượng khai thác, sử dụng nước. Tuy nhiên, việc thực hiện vẫn còn chậm trễ, dẫn đến việc xác định lượng nước sử dụng không chính xác. Cũng liên quan đến chính sách mới này, nội dung thí điểm chi trả DVMTR đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp mới chỉ áp dụng cho các cơ sở sử dụng nước mặt từ sông, suối, hồ… mà chưa áp dụng cho các cơ sở sử dụng nước ngầm qua máy bơm.
Trước thực tế trên, thời gian tới, để thực hiện hiệu quả chính sách chi trả DVMTR đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp, yêu cầu đặt ra là các cấp, ngành liên quan cần làm rõ tiêu chí xác định giữa cơ sở sản xuất công nghiệp và cơ sở sản xuất nông nghiệp. Liên quan đến việc xác định đối tượng cũng như mức chi trả DVMTR, đối tượng chi trả đối với hoạt động sản xuất công nghiệp không nên phân biệt sử dụng nước ngầm hay nước mặt (sử dụng nước trực tiếp từ nguồn nước) nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa các cơ sở. Qua đó, hướng tới mục tiêu tăng nguồn thu cho công tác bảo vệ, phát triển rừng cũng như phục vụ hiệu quả quá trình sản xuất, kinh doanh của các cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh.