PHỔ BIẾN PHÁP LUẬT
Bị can phạm tội ít nghiêm trọng có bị tạm giam không?
(Congan.nghean.gov.vn)-"Em trai tôi bị khởi tố về tội “gây rối trật tự công cộng” - được xác định là tội ít nghiêm trọng - nhưng lại bị tạm giam trong quá trình điều tra. Việc tạm giam này có đúng quy định không?." Vấn đề quan tâm của bà Hà Thị Lam (phường Trường Vinh, Nghệ An).
Trả lời: Theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, biện pháp tạm giam không chỉ áp dụng với các tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng, mà trong một số trường hợp nhất định còn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng.
Điều 119. Tạm giam
1. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
2. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
3. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
Cụ thể, người phạm tội ít nghiêm trọng có thể bị tạm giam nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
- Tội danh đó có khung hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ xác định bị can đã vi phạm biện pháp ngăn chặn khác, không có nơi cư trú rõ ràng, có dấu hiệu bỏ trốn, tiếp tục phạm tội, hoặc có hành vi cản trở hoạt động điều tra như tiêu hủy chứng cứ, mua chuộc người làm chứng, đe dọa người tố giác tội phạm…
- Trường hợp tội danh có mức phạt tù đến 2 năm, việc tạm giam chỉ được áp dụng nếu bị can tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
Ngoài ra, pháp luật cũng quy định không tạm giam đối với một số đối tượng đặc biệt (phụ nữ mang thai, người đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, người già yếu, bệnh nặng...) nếu họ có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng, trừ khi có căn cứ đặc biệt như bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Như vậy, trong vụ việc mà bà Lam nêu, nếu người bị khởi tố phạm tội “gây rối trật tự công cộng” có khung hình phạt trên 2 năm tù và thuộc một trong các trường hợp nêu trên, thì việc cơ quan điều tra áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn tố tụng là có căn cứ. Ngược lại, nếu không có các yếu tố này, cơ quan tiến hành tố tụng không được tạm giam mà phải áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, như bảo lãnh hoặc cấm đi khỏi nơi cư trú.
P.V (tổng hợp)