Lịch sử cách mạng của dân tộc ta hơn 80 năm qua luôn minh chứng một luận điểm: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi!
Ảnh minh họa |
- Ra nghị quyết lãnh đạo: Hình thành cương lĩnh, đường lối, chủ trương trong từng giai đoạn, thời kỳ, trong từng lĩnh vực.
- Lãnh đạo bằng giáo dục thuyết phục, nêu gương: sau khi có nghị quyết của Đảng phải lãnh đạo các hoạt động tư tưởng: Học tập, nghiên cứu, quán triệt tạo sự nhất trí cao trong toàn đảng và sự đồng thuận trong toàn xã hội đối với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, hướng dẫn mọi tổ chức Đảng, mọi cán bộ, đảng viên, xây dựng chương trình hành động và đặc biệt là xác định trách nhiệm cho mọi cán bộ, đảng viên trước hết là các cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành thực sự đi đầu, làm gương trong việc thực hiện nghị quyết.
- Lãnh đạo thể chế hóa nghị quyết thành luật, pháp lệnh, các văn bản pháp quy, các cơ chế chính sách.
- Lãnh đạo kiểm tra việc thực hiện nghị quyết.
Cả 4 yếu tố trên đây đều có vị trí rất quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng ta. Phải làm tốt cả 4 yếu tố, 4 khâu quan trọng này thì nghị quyết của Đảng mới đi vào cuộc sống. Để ra quyết định đúng thì quá trình hình thành các quyết định phải là quá trình khoa học và dân chủ, quyết định phải hợp quy luật và hợp lòng người.
Khi có quyết định đúng rồi thì nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải thông qua các hoạt động tuyên truyền giáo dục quán triệt để tạo sự nhất trí cao trong toàn Đảng, sự đồng thuận trong xã hội đối với quyết định của Đảng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền toàn dân sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, do đó một khâu có ý nghĩa quyết định đưa nghị quyết vào cuộc sống đòi hỏi Đảng phải lãnh đạo thể chế hóa nghị quyết của Đảng thành luật, pháp lệnh, các cơ chế, chính sách.
Năm 2008, nhằm phát huy vai trò rất quan trọng và đặc biệt tinh tế, là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người, là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Bộ Chính trị khóa X đã ra Nghị quyết “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”.
Hơn 6 năm qua, thực hiện nghị quyết về một lĩnh vực rất quan trọng và tinh tế này, nền văn học, nghệ thuật nước ta đã có bước phát triển mới, ngày càng phong phú và đa dạng. Văn học, nghệ thuật đã nắm bắt được dòng mạch chính là chủ nghĩa yêu nước và nhân văn, gắn bó với dân tộc, nỗ lực phản ánh chân thật cuộc đấu tranh cách mạng và lao động sáng tạo của nhân dân ta, có nhiều tác phẩm tốt trong tất cả các loại hình nghệ thuật từ văn học, sân khấu, âm nhạc, mỹ thuật, nhiếp ảnh, múa, điện ảnh, kiến trúc… chủ nghĩa nhân văn, phẩm chất nhân đạo được đề cao.
Văn học, nghệ thuật đã cố gắng phát hiện, khẳng định các nhấn tố mới, trong những năm gần đây, nhiều văn nghệ sỹ trong các lĩnh vực điện ảnh, âm nhạc, mỹ thuật, múa, nhiếp ảnh, sân khấu… Thông qua các tác phẩm và biểu diễn về chủ đề biển đảo đã góp phần bồi dưỡng sâu sắc chủ nghĩa yêu nước, cổ vũ mạnh mẽ ý chí, quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Văn học, nghệ thuật tham gia cuộc đấu tranh lên án cái xấu, cái ác, sự thoái hóa, biến chất về nhân cách lối sống và đạo đức trong một bộ phận xã hội.
Tự do trong sáng tạo nghệ thuật và sự đa dạng về nội dung, phong cách sáng tác, phương thức biểu hiện được tôn trọng, dấu ấn cá nhân cá tính sáng tác được khẳng định. Công tác lý luận, phê bình có bước đổi mới đã có tác dụng tích cực đối với sáng tác. Các phương tiện, phương thức sản xuất trình diễn, truyền bá sản phẩm văn học, nghệ thuật phát triển khá mạnh đã đưa được nhiều tác phẩm đến với công chúng, góp phần đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của nhân dân.
Bên cạnh những mặt tích cực của sự phát triển văn học, nghệ thuật còn bộc lộ một số yếu kém khuyết điểm chủ yếu sau:
- Trong sáng tác, biểu diễn, truyền bá còn không ít tác phẩm và hoạt động chưa thể hiện được tính chất tiên tiến và bản sắc dân tộc. Số lượng tác phẩm ngày càng nhiều nhưng rất ít tác phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Trong không ít các tác phẩm lý tưởng xã hội thẩm mỹ không rõ nét, ý nghĩa xã hội rất hạn hẹp. Còn không ít văn nghệ sỹ có hạn chế trong tiếp cận và nhận thức những vấn đề mới của cuộc sống, chưa cảm nhận đầy đủ ý nghĩa, chiều sâu và tính phức tạp của thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc tế cũng như của việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng, phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Có những biểu hiện xa lánh những vấn đề lớn lao của đất nước, chạy theo những đề tài nhỏ nhặt, tầm thường, chiều theo thị hiếu thấp kém của một bộ phận công chúng, hạ thấp chức năng giáo dục nhấn mạnh một chiều chức năng giải trí. Trong một số sản phẩm văn học, nghệ thuật có biểu hiện cực đoan, chỉ tập trung tô đậm mặt đen tối, tiêu cực của cuộc sống hiện tại, thậm chí xuyên tạc bóp méo lịch sử; một số bị các thế lực thù địch lôi kéo đã sáng tác và truyền bá các tác phẩm độc hại đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Tình trạng nghiệp dư hóa các hoạt động văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp có chiều hướng gia tăng.
Hoạt động lý luận văn học, nghệ thuật còn lạc hậu nhiều mặt, chưa giải đáp được nhiều vấn đề của đời sống, còn xa rời thực tiễn sáng tác. Hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật có biểu hiện tụt hậu so với yêu cầu, chưa thực hiện tốt chức năng hướng dẫn, điều chỉnh và đồng hành với sáng tác. Chất lượng khoa học và tính chuyên nghiệp của phê bình bị xem nhẹ, xuất hiện lối phê bình cảm tính, thiếu một hệ thống tiêu chí tin cậy dễ đánh giá; văn hóa phê bình bị hạ thấp.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sỹ còn nhiều bất cập, yếu kém. Chương trình nội dung lạc hậu, chất lượng đào tạo toàn diện về chính trị, tư tưởng, chuyên môn, đạo đức, thể chất không đảm bảo, chưa chú trọng đúng mức tính đặc thù, chuyên biệt và yêu cầu đào tạo tài năng.
Đánh giá nguyên nhân của những thành tựu cũng như những yếu kém, khuyết điểm trên cả 3 lĩnh vực: sáng tác, biểu diễn truyền bá; lý luận, phê bình và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ văn nghệ sỹ, chúng ta càng nhận thức sâu sắc những ưu, khuyết điểm trong cả 4 khâu, 4 yếu tố của phương thức lãnh đạo.
Khi tổng kết 5 năm thực hiện nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về văn học, nghệ thuật, các Hội văn học, nghệ thuật ở cả Trung ương và các địa phương đều rất bức xúc về sự chậm trễ trong việc thể chế hóa nghị quyết chuyên đề này.
Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 23 vào ngày 16/6/2008, thì tháng 7/2008 Ban Bí thư Trung ương đã ra quyết định thành lập Ban Chỉ đạo thể chế hóa Nghị quyết 23 của Trung ương do một đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương làm Trưởng ban, 01 đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ làm Phó trưởng ban. Ban Chỉ đạo Trung ương đã căn cứ vào chủ trương giải pháp thứ 3 của Nghị quyết 23 là: “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn học, nghệ thuật.Hoàn thành cơ bản việc thể chế hoá các quan điểm, đường lối, định hướng của Đảng về văn học, nghệ thuật.
Xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển dài hạn các lĩnh vực văn học, nghệ thuật; rà soát, bổ sung và xây dựng mới các chế độ, chính sách đối với hoạt động văn học, nghệ thuật, như chế độ lương, nhuận bút, đãi ngộ tài năng, bồi dưỡng lao động nghề nghiệp, chế độ hưu. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả kế hoạch xã hội hoá các hoạt động văn học, nghệ thuật, làm rõ các lĩnh vực cần xã hội hoá, lĩnh vực Nhà nước và nhân dân cùng làm, lĩnh vực Nhà nước phải đầu tư bảo tồn, xây dựng và phát triển. Tăng mức đầu tư cho văn học, nghệ thuật; bảo đảm kinh phí cho các chương trình mục tiêu lớn, cho hoạt động sáng tạo của các hội văn học, nghệ thuật, xác định việc đầu tư này là đầu tư cho phát triển.
Xây dựng đề án và cơ chế bảo tồn, truyền bá các loại hình văn học, nghệ thuật cổ truyền; có chính sách đặc biệt hỗ trợ sự phát triển của ngôn ngữ, chữ viết và văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số. Có kế hoạch đầu tư xây dựng các công trình văn hoá, nghệ thuật; nâng cấp, cải tạo và xây mới một số nhà hát, rạp chiếu phim, trung tâm triển lãm văn học, nghệ thuật có chất lượng cao, tầm cỡ lớn, tính chất hiện đại ở các thành phố, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của đất nước.
Nâng cao chất lượng các trường đào tạo văn học, nghệ thuật, hoàn thiện chương trình mới, giáo trình các trường cao đẳng, đại học, giảng dạy các ngành đào tạo văn học, nghệ thuật (sáng tác nghiên cứu lý luận, phê bình, biểu diễn, chỉ huy, đạo diễn…). Rà soát bổ sung các chế độ chính sách đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng văn nghệ sỹ đáp ứng đào tạo đặc thù trong lĩnh vực này”, từ đó chỉ đạo xây dựng 05 đề án để thực hiện đó là:
Đề án 1: “Xây dựng và rà soát các chế độ chính sách đối với các hoạt động văn học, nghệ thuật và văn nghệ sỹ, chế độ tài trợ đặt hàng đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật; chính sách khuyến khích sáng tác trong các hoạt động văn học, nghệ thuật.
Đề án 2: “Xây dựng chính sách thẩm định, quảng bá, thuế ưu đãi… đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật trong nước, văn hóa phẩm của Việt Nam đưa ra nước ngoài và giới thiệu tinh hoa văn học, nghệ thuật của thế giới vào Việt Nam; chính sách sưu tầm chỉnh lý, bảo tồn, phát huy, quảng bá di sản văn học, nghệ thuật dân tộc và phát triển văn học, nghệ thuật quần chúng”.
Đề án 3: “Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường văn hóa, nghệ thuật giai đoạn 2011 – 2020”.
Đề án 4: “Trên cơ sở quy hoạch và rà soát lại các công trình hiện có, xây dựng kế hoạch nâng cấp, xây mới các công trình văn hóa (nhà hát, rạp chiếu phim, nhà triển lãm) từ năm 2010 – 2020”.
Đề án 5: “Xây dựng nghị định hướng dẫn thi hành luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật Sở hữu trí tuệ”.
Ba đề án 1, 2, 3 được Chính phủ phê duyệt năm 2011, đề án 4, Chính phủ phê duyệt tháng 01/2013. Đề án 5 được Chính phủ phê duyệt và ban hành Nghị định số 85/2011/NĐ-CP ngày 20/9/2011.
Đến nay, trong 5 đề án thì mới có đề án 5 được thể chế bằng một nghị định hướng dẫn thi hành luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật Sở hữu trí tuệ. Còn 4 đề án mới được Chính phủ phê duyệt và cần phải được thể chế hóa bằng việc xây dựng và ban hành trên 30 cơ chế, chính sách cụ thể. Do đó chỉ riêng thể chế hóa một phần của chủ trương, giải pháp thứ 3 của Nghị quyết 23 mà hơn 6 năm mới thể chế hóa được 1/5 số đề án.
Vì sao việc thể chế hóa một nghị quyết về phát triển văn học, nghệ thuật lại quá chậm như vậy? Qua tìm hiểu bước đầu, chúng tôi thấy rất đồng tình với các nhận định nguyên nhân của những hạn chế yếu kém của văn hóa mà Nghị quyết Trung ương 9 chỉ ra: “chủ yếu do nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ đến lĩnh vực này, lãnh đạo chỉ đạo chưa thật quyết liệt việc cụ thể hóa, thể chế hóa của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ và trong một số trường hợp thiếu khả thi. Công tác quản lý về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi xem nhẹ, thậm chí buông lỏng, kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải.
Chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả. Chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”. Chúng tôi muốn nhấn mạnh bổ sung một số ý về sự chậm trễ trong việc thể chế hóa nghị quyết về văn học, nghệ thuật. Muốn thể chế hóa các quan điểm đường lối chủ trương phát triển văn học, nghệ thuật một lĩnh vực rất đặc thù và tinh tế của văn hóa đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, văn nghệ phải có một đội ngũ chuyên viên, chuyên gia cần thiết tập trung cho nhiệm vụ xây dựng các cơ chế chính sách cho xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật.
Đội ngũ này không chỉ có hiểu biết sâu sắc quan điểm đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng, kiến thức pháp luật, có năng lực xây dựng các cơ chế chính sách văn hóa trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa và bám sát thực tiễn của hoạt động văn hóa, văn nghệ… Tôi xin đưa ra một ví dụ: Năm 2000 ở nước ta có xây dựng một vài quỹ phát triển văn hóa; nhà nước đưa vào quỹ này một khoản tiền, sau vài năm quỹ này tiêu hết và không còn lý do tồn tại; nay chỉ còn một hình thức hàng năm Chính phủ hỗ trợ cho các hội văn học, nghệ thuật một khoản tiền từ ngân sách để các hội này hỗ trợ cho các văn nghệ sỹ trong hoạt động sáng tác.
Trong khi ở Hàn Quốc, họ cũng xây dựng một số quỹ phát triển văn học, nghệ thuật, nhà nước đầu tư vào quỹ này một khoản tiền ban đầu thôi còn cho quỹ này 3 cơ chế: Xổ số kiến thiết, đua ngựa, vận động các tổ chức, cá nhân tài trợ cho sáng tác, biểu diễn văn học, nghệ thuật. Với 3 cơ chế này mỗi năm quỹ này thu được gần 200 triệu USD. Và quỹ này, tài trợ cho các văn nghệ sỹ sáng tác, tài trợ cho các đoàn nghệ thuật đi biểu diễn ở vùng sâu, vùng xa, cho binh lính và cho tù nhân trong các trại giam. Xu hướng phát triển của quỹ này rất mạnh và quỹ này hỗ trợ rất có hiệu quả cho sáng tác và quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật.
Đã đến lúc phải vượt qua tư duy bao cấp trong xây dựng cơ chế chính sách phát triển văn học, nghệ thuật. Cần phải quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị trong thể chế hóa nghị quyết về phát triển văn học, nghệ thuật là: Lĩnh vực nào của văn học, nghệ thuật có thể xã hội hóa hoàn toàn, lĩnh vực nào thì nhà nước và xã hội cùng làm; lĩnh vực nào nhà nước phải đầu tư 100%.
Trên cơ sở quán triệt sâu sắc vai trò rất quan trọng và tính đặc thù của văn học, nghệ thuật, các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa cần xây dựng được một đội ngũ cán bộ chuyên trách thực hiện nhiệm vụ thể chế hóa Nghị quyết Trung ương 9 và Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị.
Bốn mươi nghìn văn nghệ sỹ cả nước rất tin tưởng trong tương lai không xa được đón nhận hệ thống cơ chế, chính sách được thể chế hóa từ Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị. Điều đó chắc chắn sẽ góp phần tạo nên những nguồn lực để phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học, góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
.