Kinh tế xã hội

30 năm đổi mới - Động lực cho phát triển nhanh, bền vững

10:10, 19/08/2014 (GMT+7)

Sau gần 30 năm đổi mới (1986-2014), Việt Nam là số ít trong các nước chuyển đổi thành công trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, liên tục và ổn định. Kết quả ấy cho chúng ta thêm động lực trong thúc đẩy đà tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững.

Mặc dù có những thời kỳ tốc độ tăng trưởng thấp, nhưng nhìn tổng quát, tốc độ tăng bình quân/năm thời kỳ 1986-2013 thuộc loại tương đối cao (6,25%/năm), trong đó thời kỳ 1991-2005 tăng 7,17%/năm. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá (tính theo giá so sánh), GDP bình quân đầu người năm 2013 cao gấp 3,75 lần so với năm 1985, hay tăng 4,83%/năm.

Tăng trưởng GDP đạt được ở cả 3 nhóm ngành với tốc độ khác nhau và tạo nên sự chuyển dịch cơ cấu theo nhóm ngành kinh tế.

Một số chỉ tiêu chủ yếu năm 2013 so với năm 1986 (lần)

Nguồn: Tổng cục Thống kê
Nguồn: Tổng cục Thống kê

GDP do nông, lâm nghiệp-thủy sản tạo ra năm 2013 cao gấp gần 2,65 lần năm 1986 (tăng trung bình gần 3,54%/năm). Đổi mới bắt đầu từ nông nghiệp đã góp phần chuyển Việt Nam từ nước độc canh lúa, thiếu lương thực sang quốc gia xuất khẩu gạo, cà phê, hạt điều, tiêu, cao su, gỗ và sản phẩm gỗ, thủy sản… đứng thứ hạng cao trên thế giới.

GDP do nhóm ngành công nghiệp-xây dựng tạo ra năm 2013 cao gấp gần 8,6 lần năm 1986 (tăng gần 8%/năm) và trở thành động lực, đầu tàu tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.

GDP do nhóm ngành dịch vụ tạo ra năm 2013 cao gấp gần 6,57 lần năm 1986, tăng gần 6,96%/năm.

Cơ cấu GDP theo nhóm ngành đã có sự chuyển dịch tích cực. So với năm 2013, tỷ trọng của nông, lâm nghiệp-thủy sản giảm từ 38,1% năm 1986 xuống còn 18,39%; của công nghiệp-xây dựng tăng từ 28,9% lên 38,3%; của dịch vụ tăng từ 33% lên 43,31%.

Cơ cấu loại hình kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ trọng của kinh tế Nhà nước từ 39,7% năm 1986 xuống còn 32,2% năm 2013; của kinh tế ngoài Nhà nước (kể cả đầu tư nước ngoài) tăng từ 60,3% lên 67,8%.

Nếu năm 1986, sản xuất mới đáp ứng được khoảng 85,7% sử dụng (tức là chỉ bằng tiêu dùng cuối cùng, không có tích lũy hoặc tích lũy tài sản dựa vào nhập siêu từ nước ngoài lên đến 16,7% GDP), thì đến năm 2012 đã vượt 3,5% GDP, năm 2013 đã vượt 4,09%.

Trong quan hệ buôn bán với nước ngoài, Việt Nam đã chuyển từ nhập siêu lớn, trong thời gian dài sang xuất siêu từ hơn 2 năm nay. Dự trữ ngoại hối hiện đạt khoảng 35 tỷ USD, cũng là mức cao nhất từ trước đến nay.

Lạm phát đã chuyển từ phi mã trong thời kỳ 1986-1991 (bình quân 170%/năm) sang tăng ở mức tương đối thấp trong thời kỳ 1992-2003 (5,3%/năm) và đã chuyển từ tốc độ tăng cao trong thời kỳ 2004-2011 (11,58%/năm) sang tăng ở mức thấp hơn từ 2012 đến nay (năm 2012 tăng 6,81%, năm 2013 tăng 6,04%, 7 tháng 2014 tăng 1,62%).

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hiện cũng còn nhiều việc phải làm để khắc phục những hạn chế, bất cập và thực hiện những mục tiêu cao hơn, trong đó có hai vấn đề lớn đối với tăng trưởng kinh tế hiện nay, đó là phục hồi tốc độ tăng trưởng và nâng cao chất lượng tăng trưởng.

Tăng trưởng kinh tế từ năm 2010 đến nay đã chậm lại, tác động tiêu cực đến việc thực hiện tái cơ cấu, 3 đột phá chiến lược, đến việc thực hiện mục tiêu tổng quát đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình, nguy cơ tụt hậu xa hơn đã xuất hiện. Mặc dù GDP bình quân đầu người tính bằng USD của Việt Nam liên tục tăng lên, nhưng chênh lệch với các nước vẫn còn lớn.

Chất lượng tăng trưởng còn thấp, thể hiện ở hiệu quả đầu tư và năng suất lao động còn thấp. Hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở hệ số ICOR còn cao và tăng lên (bình quân thời kỳ 1996-2000 là 4,8 lần, thời kỳ 2001-2005 là 5,2 lần, thời kỳ 2006-2013 là 5,8 lần). Năng suất lao động năm 2013 của cả nước mới đạt 68,7 triệu đồng/người, tương đương với 3.289,2 USD.

Tốc độ tăng năng suất lao động cũng chậm lại: Bình quân năm thời kỳ 1991-2005 đạt 4,54%, đến thời kỳ 2006-2013 chỉ còn tăng 3,4%). Tỷ trọng đóng góp của năng suất tổng hợp (TFP) đối với tốc độ tăng GDP còn thấp (hiện đạt khoảng 28%, dù có đạt mục tiêu đến 2015 là 31-32% và mục tiêu đến 2020 là 34-35% thì cũng còn thấp xa so với các nước Đông Nam Á (hiện đạt trên 40%). Đây là những vấn đề cần phải khắc phục, mặc dù không phải một sớm, một chiều.
 
Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam là số ít trong các nước chuyển đổi thành công trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, liên tục và ổn định. Nhìn lại chặng đường dài phát triển để có thêm động lực lấy lại đà tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững.

Nguồn: Chinhphu.vn

Các tin khác