Trong vài năm gần đây, cứ vài tuần, thậm chí vài ngày cả nước lại rúng động vì một vụ bạo lực tình dục với trẻ em gái xảy ra ở một địa phương nào đó. Các cơ quan chức năng đã chính thức thừa nhận rằng tình trạng tội phạm xâm hại tình dục trẻ em có xu hướng gia tăng về số lượng, bình quân mỗi năm gần 1.000 em bị xâm hại tình dục.
Cứ 8 giờ thì lại có ít nhất một trẻ trở thành nạn nhân
Theo báo cáo của Cục Cảnh sát hình sự-Bộ Công an, từ năm 2010 đến năm 2013, số vụ xâm hại tình dục trẻ em bị phát hiện đã tăng gần gấp đôi từ 867 vụ lên đến 1.544 vụ vào năm 2014. Như vậy, theo những con số chính thức đó thì chí ít mỗi ngày có 3 đứa trẻ bị xâm hại. Hay một cách tính chi tiết hơn, cứ 8 giờ trôi qua thì lại có ít nhất một trẻ trở thành nạn nhân của yêu râu xanh. Đứa bé đó thậm chí có thể đã mất mạng, hoặc sống sót thì sẽ bị nỗi sợ hãi và nhục nhã ám ảnh trong suốt cuộc đời còn lại.
Nhiều người quan tâm đến vấn đề này cho rằng con số 1.000 đứa trẻ bị xâm hại tình dục ở Việt Nam chưa phản ánh đúng sự thật. Không hẳn là do thống kê không chính xác hoặc chưa đầy đủ. Lý do chủ yếu có lẽ nằm trong nền văn hoá của chúng ta và nhận thức của chúng ta về trách nhiệm đối với con trẻ.
Mới gần đây, Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội đã thực hiện một nghiên cứu để tìm hiểu rõ hơn về vấn nạn này. Vì không thể tiếp cận được các số liệu của các cơ quan chức năng và cũng vì nguồn số liệu đó khá sơ sài nên Viện đã tổng hợp các vụ xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em được đưa tin trên báo điện tử trong vòng 5 năm từ 2011-2016.
Phân tích sơ bộ ban đầu cho thấy, trong số 322 trường hợp bạo lực tình dục được đưa tin, có tới 21,2% nạn nhân dưới 10 tuổi, thậm chí có những bé chỉ mới 2 tuổi và 60% nạn nhân ở độ tuổi 11-25; số trường hợp bị bạo lực kép: Nạn nhân bị cưỡng hiếp, cướp tài sản, hành hung và thậm chí bị giết chết, chiếm 32%. Số vụ hãm hiếp tập thể với phần lớn là do 3 đến 5 thủ phạm chiếm 13,5%.
Trái với quan điểm cho rằng phụ nữ và trẻ em gái có thể tự bảo vệ mình bằng cách hạn chế giao du với người lạ hay không đi ra khỏi nhà vào đêm tối, phân tích của chúng tôi cho thấy 73% thủ phạm là người quen, trong đó 10% là cha đẻ hoặc cha dượng. Thủ phạm gồm cả những người được cho là đáng tin cậy như người cao niên, người có uy tín, giáo viên, những người nổi tiếng hay cả những người trong hệ thống thực thi pháp luật. Ngoài ra, phần lớn các vụ bạo lực tình dục cũng xảy ra ở những địa điểm thường được coi là an toàn như trường học, công sở hay chính trong nhà của nạn nhân.
Bạo lực tình dục dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng
Đó là hậu quả về sức khoẻ thể chất, tinh thần và cả tài chính cho nạn nhân. Nhiều nạn nhân và gia đình đã phải vật lộn với việc thay đổi sinh kế do phải chuyển nơi sinh sống để tránh bị kỳ thị. Thậm chí, không ít người đã phải tìm đến cái chết để thoát khỏi ám ảnh và bế tắc sau khi bị bạo hành tình dục.
Điều bức xúc nhất là những lý do hiếp dâm hoặc xâm hại tình dục được nêu. Lý do thường được nêu nhất là thủ phạm “không kiềm chế được dục vọng”, nạn nhân “dễ dãi”, hoặc “ăn mặc gợi cảm”. Những lý do khác làm bức xúc không kém là nạn nhân “không đề phòng”, “ở nhà một mình”, “đi ngủ không mặc quần áo”, “đi tắm không cài cửa”… Cho dù đó là cách lý giải của một số nhà báo nhưng nó phản ánh nhận thức của cả xã hội về vấn đề này. Theo cách nhận thức đó, nạn nhân dường như phải chịu trách nhiệm về vụ xâm hại xảy ra với mình và như vậy xâm hại tình dục là không tránh khỏi và không thể đề phòng.
Ai đó sẽ nói, là vì báo chí đưa lên nên xâm hại tình dục mới thành vấn đề. Tiếc rằng, trong thực tế, bạo lực tình dục dưới nhiều hình thức khác nhau đang xẩy ra hàng ngày hàng giờ ở mọi nơi mọi chỗ.
Theo một nghiên cứu tại 3 trường phổ thông trung học ở Hà Giang, Quảng Ninh và TP.HCM do Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (ISDS) và Trung tâm Nghiên cứu về và Ứng dụng Khoa học về Phụ nữ, Giới và Vị Thành niên (CSAGA) hợp tác với Actionaid thực hiện vào năm 2009 thì có tới 20% các em được hỏi đã bị quấy rối, lạm dụng tình dục theo các hình thức khác nhau, trong đó 4,8% các em bị 1-2 lần trong năm, cá biệt có những em bị tới hơn 10 lần trong một năm.
Nạn nhân thường tập trung nhiều ở độ tuổi từ 14 đến 16, tuy nhiên cũng có những em bị những hành vi sàm sỡ từ rất sớm, từ khi mới 7 đến 9 tuổi. Số em trai bị quấy rối, lạm dụng tình dục cũng không phải là nhỏ (20,8%). Điều đáng lo ngại là nhiều em không ý thức được mình bị bạo hành tình dục khi người khác dùng lời nói, cử chỉ và các phương tiện gợi dục khác với các em. Trong số 15,6% các em trả lời từ nhỏ tới nay em đã từng bị quấy rối, lạm dụng tình dục, có 26,8% số em đã từng bị ép buộc hôn vào môi, 19,5% bị đụng chạm ở ngực và 7,3% ở bộ phận sinh dục.
Ngoài ra, có tới 10% số em học sinh được hỏi trả lời là đã từng bị người khác bắt ép nhìn, sờ mó/đụng chạm vào những bộ phận nhạy cảm trên cơ thể của họ. Trong khi đó các thầy cô giáo được hỏi thì lại cho rằng chuyện này ít khi xẩy ra trong trường.
Theo nghiên cứu của Tổ chức Action Aid tại Việt Nam năm 2015, có tới 87% phụ nữ từ 2 TP.HCM và Hà Nội từng bị quấy rối tình dục nơi công cộng; 67% người chứng kiến đã không có hành động gì. Nghiên cứu của Tổ chức Plan Quốc tế tại Việt Nam cũng trong năm đó cho kết quả, 31% em gái vị thành niên và thanh niên đã từng bị quấy rối tình dục ở nơi công cộng và trên các phương tiện giao thông công cộng, 11% học sinh tại 30 trường phổ thông của Hà Nội từng bị xâm hại, quấy rối tình dục.
Nguyên nhân sâu xa khiến bạo lực tình dục gia tăng
Trong nền văn hoá Việt Nam, bản thân tình dục vốn bị coi là bản năng thấp kém của con người, nói về tình dục là việc đáng xấu hổ, nhất là chuyện xâm hại tình dục. Rất nhiều người trong khi thương hại hoặc thông cảm với nạn nhân nhưng đồng thời lại cũng nghi ngờ hoặc chê trách họ vì đã gây sự chú ý hoặc dễ dãi hay dại dột. Trong nhận thức của xã hội nói chung bạo lực và lạm dụng tình dục là vấn đề của cá nhân và chủ yếu là của những cá nhân không tuân thủ các chuẩn mực giới truyền thống hoặc không được dạy dỗ để tuân thủ các chuẩn mực đó.
Cộng đồng, gia đình và bản thân các nạn nhân đôi khi cũng chấp nhận cam chịu và tự tìm cách đương đầu với hậu quả bạo lực, lạm dụng và quấy rối tình dục hơn là lên tiếng đòi lại công bằng và kết nối với nhau để đấu tranh chống lại những vấn nạn đó. Những giá trị cổ hủ, những quan niệm sai lầm về nam tính/nữ tính cùng với những định kiến và khuôn mẫu giới bất bình đẳng chính là nguyên nhân sâu xa của tình trạng này và là những rào cản văn hoá khiến cho bạo lực tình dục với phụ nữ và trẻ em gia tăng trong thời gian qua.
Tôi đã phẫn nộ khi đọc tin về những bà mẹ biết con gái mình bị chính cha đẻ xâm hại tình dục trong nhiều năm nhưng vẫn câm nín. Nhưng sau khi bình tĩnh để suy ngẫm tại sao họ lại hành xử như vậy tôi lại thấy thương xót họ bội phần. Đưa vụ việc ra ánh sang họ sẽ có nguy cơ bị bạo lực nhiều hơn từ chồng, họ sẽ bị cả gia đình và cộng đồng chê trách, khinh khi.
Là người vận động xoá bỏ án tử hình nhưng khi đọc về những vụ xâm hại tình dục trẻ em nghiêm trọng tôi không khỏi sục sôi muốn kẻ thủ ác phải đền mạng. Nhưng khi bình tĩnh lại tôi hiểu, án tử hình không phải là giải pháp. Điều mấu chốt là thay đổi văn hoá đổ lỗi và im lặng.
Việt Nam ký Công ước về Quyền Trẻ em năm 1990, chưa đầy một năm sau khi Công ước này được thông qua bởi Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc. Việt Nam cũng là một nước có riêng một bộ luật về trẻ em và nhiều quy định luật pháp chính sách tiến bộ về bảo vệ trẻ em. Việt Nam còn có một bộ máy khá toàn diện về chăm sóc và bảo vệ trẻ em từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, sự chậm trễ của cơ quan thực thi pháp luật, thái độ bàng quan, dung túng của cán bộ công quyền đã khiến bạo lực và lạm dụng bị xem nhẹ hoặc rơi vào im lặng.
Nhiều trường hợp bạo lực và lạm dụng được xử lý theo cách ‘hòa giải’ truyền thống ngay cả khi các vụ việc đã có dấu hiệu hình sự. Quy trình tố tụng thiếu chặt chẽ và thiếu nhạy cảm thậm chí còn khiến nhiều nạn nhân dường như bị bạo lực và lạm dụng thêm nhiều lần nữa. Nhiều cán bộ trong các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giải quyết bạo lực tình dục đối với phụ nữ và trẻ em, thay vì nhận ra những lỗ hổng trong hệ thống phòng ngừa và thực thi luật pháp lại đổ lỗi cho phụ nữ và trẻ em là thiếu hiểu biết hoặc không hành xử đúng mực. Thay vì nghiêm khắc nhận trách nhiệm và củng cố, tăng cường các giải pháp bảo vệ và xử lý bạo lực và lạm dụng tình dục lại quy trách nhiệm cho phụ nữ và trẻ em phải tự bảo vệ mình. Đó là những rào cản về thể chế khiến cho bạo lực tình dục không những không giảm mà còn gia tăng với diễn biến ngày càng phức tạp trong thời gian qua.
Trong vụ việc em bé 13 tuổi ở Cà Mau mới đây, gia đình em đã tố cáo đến cơ quan chức năng nhưng lại được trả lời là không đủ chứng cớ để khởi tố vụ việc. Kết cục là cái chết tức tưởi của em ngay sau mấy ngày tết. Hãy tưởng tượng tâm trạng của một đứa trẻ 13 tuổi khi phải lựa chọn sự phản kháng bi thương như vậy!
Các nghiên cứu cho biết trẻ bị xâm hại tình dục có thể tiếp tục bị người khác xâm hại trong suốt quãng đời còn lại. Nếu không thoát ra khỏi tình trạng đó và được hỗ trợ tích cực, những trải nghiệm bị xâm hại khi còn là một đứa trẻ sẽ khiến chúng tin rằng đó là lỗi của chúng và đó là điều chúng phải chấp nhận. Khi chứng kiến ai đó bị xâm hại tình dục chúng cũng sẽ tim lặng vì tin rằng đó là văn hoá.
Xin hãy đừng đổ lỗi và đừng im lặng để không có thêm những em bé Vũng Tàu hay Ba Vì. Xin đừng im lặng để không có thêm những đứa trẻ phải quyên sinh như em bé ở Cà Mau. Tôi mong rằng cái chết của em sẽ thức tỉnh toàn xã hội chấm dứt sự im lặng trước tội ác.
.