Cách nhận biết các thể hen phế quản ở trẻ em
Hen do virut
Cơn hen thường xuất hiện sau một đợt nhiễm trùng đường hô hấp do virut hoặc vi khuẩn, khi thay đổi thời tiết trong những đợt chuyển mùa. Trẻ có biểu hiện: cơn khó thở, thở rít. Có tới 1/3 số bệnh nhi này có thể bị hen và thường bị chẩn đoán là viêm phế quản co thắt. Việc chẩn đoán nhầm dẫn tới điều trị không thích hợp thì bệnh nhân dễ chuyển thành thể hen nặng kéo dài hay tái phát gây dị dạng lồng ngực, giảm phát triển cơ thể. Do đó, khi trẻ có các dấu hiệu sau thì cần nghĩ đến hen phế quản: thở khò khè trước 3 tuổi và cha hoặc mẹ bị hen phế quản hoặc bị chàm; tăng bạch cầu ái toan trong máu, khò khè dù không bị cảm lạnh và viêm mũi dị ứng.
|
Khi bị hen phế quản do virut, trẻ thường có biểu hiện ho, sốt, sổ mũi.
Hen khởi phát do vận động
Sau khi tập luyện, vui chơi, chạy nhảy, cơ thể trẻ cần nhiều ôxy hơn nên trẻ thở nhanh qua miệng. Đường thở phản ứng lại với không khí khô và lạnh bằng cách co thắt các cơ bao quanh phế quản làm hẹp đường thở. Những triệu chứng hen do vận động thường là: Khò khè, ho, cảm giác nặng ngực, khó thở.
Các triệu chứng này có thể xảy ra trong hoặc thông thường hơn sau khi vận động và đạt đỉnh khoảng 5 - 10 phút sau khi ngưng vận động. Nhiều trường hợp triệu chứng tự biến mất trong vòng 20 - 30 phút mà không cần dùng thuốc cắt cơn. Loại hình vận động, thời lượng tập luyện, cường độ tập luyện… là những yếu tố quan trọng góp phần gây kích phát cơn hen.
Hen dị ứng
Thông thường tác nhân gây ra hen thường do bị dị ứng với bọ mạt, với bụi nhà. Đối với những trường hợp này hen xảy ra quanh năm. Ở một số người khác lại dị ứng với phấn hoa, hen chỉ xảy ra theo mùa. Hen cũng có thể xảy ra khi tiếp xúc với một vài loại hóa chất (SO2, NH3 hoặc một số chất khác trong môi trường sản xuất bột mì, sợi bông…).
Một số loại thức ăn như: bò, gà, trứng gia cầm, tôm, cua, cá biển và sulfite trong thức ăn như đồ khô, cà chua chế biến hoặc các thức ăn đóng hộp khác cũng có thể gây kích hoạt cơn hen suyễn.
Liều lượng thuốc phải được bác sĩ chỉ định tùy theo lứa tuổi và cân nặng của trẻ. Ảnh: H. Lan
Phòng ngừa và kiểm soát cơn hen
Khi lên cơn hen cấp: Cho trẻ ra chỗ thoáng khí, không khí trong lành; cho uống nhiều nước hoặc hít hơi nước làm đờm loãng ra sẽ dễ thở. Nếu cơn hen nhẹ: Dùng các thuốc giãn phế quản tác dụng nhanh như: ventolin, atrovent, bricanyl... Các loại thuốc này có thể dùng ở dạng khí dung, bình xịt định liều, thuốc dạng viên hoặc siro. Liều lượng thuốc dùng sẽ được bác sĩ chỉ định tùy theo lứa tuổi và cân nặng của trẻ. Nếu cơn hen nặng: Thuốc giãn phế quản tác dụng nhanh ventolin khí dung hoặc xịt theo chỉ dẫn của bác sĩ, 3 lần, mỗi lần cách nhau 30 phút, ngoài ra cho trẻ uống thêm corticosteroid với liều 2mg/kg/ngày, sau ăn no, nếu tình trạng không cải thiện, cha mẹ phải cho trẻ đến khám bác sĩ chuyên khoa ngay. Nếu trẻ có kèm theo sốt, cơn hen kéo dài trên 3 ngày, có thể trẻ bị viêm bội nhiễm do vi khuẩn. Trong những trường hợp hen bội nhiễm phải cho trẻ uống kết hợp thêm kháng sinh. Trẻ nhỏ dưới 5 tuổi thuốc hít phải dùng qua mặt nạ, hay buồng đệm để có hiệu quả tốt hơn, giảm thiểu tối đa các tác dụng phụ (lắng đọng thuốc ở họng, miệng). Cha mẹ có thể giúp trẻ phòng ngừa cơn hen nhưng việc kiểm soát bệnh nhất thiết phải có chỉ định của bác sĩ. Xây dựng mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân Bệnh hen tiến triển rất thất thường, một số trường hợp ổn định sau khi trẻ lớn trên 5 - 6 tuổi, nhưng một số khác sau 15 năm lại bị hen lại, thậm chí sau 20 - 30 năm. Nếu bệnh được phát hiện sớm và được quản lý điều trị dự phòng hiệu quả thì sẽ làm giảm đáng kể tần suất hen khi lớn, nhất là các thể hen nặng. Khi chẩn đoán HPQ nghĩa là bệnh không chữa khỏi được nhưng có thể kiểm soát được. Tất cả các phương pháp điều trị phải tùy thuộc trên từng trẻ, cha mẹ của trẻ cần phải có sự trao đổi, bàn bạc với thầy thuốc về kế hoạch theo dõi điều trị lâu dài. Nếu có điều kiện, tốt nhất nên thăm khám, điều trị cùng một bác sĩ từ nhỏ cho đến lớn sẽ giúp kiểm soát bệnh tốt hơn, lúc đó bác sĩ sẽ nắm được quy luật, tiến triển của bệnh và cơ địa của từng bệnh nhân để có y lệnh điều trị phù hợp.
|